Phật Giáo Hòa Hảo Trung Ương Hải Ngoại

Thiên I: Giai-đoạn ra đời mở Đạo

Mục Lục ĐỨC HUỲNH GIÁO-CHỦ


THIÊN THỨ NHỨT

GIAI ĐOẠN RA ĐỜI MỞ ĐẠO


Chương I: Bối-cảnh xã-hội [trở lại đầu trang]

Lịch sử thường chứng nhận, trong những hoàn cảnh xã hội băng hoại, nhơn tâm ly tán, thế đạo suy đồi, lòng người hung ác, mê muội bạo tàn . . . là lúc Thánh nhơn ra đời để dìu dắt nhơn dân, cải ác tùng lương, chấn chỉnh luân thường đạo nghĩa. 

Như Đức Phật Thích Ca ra đời vào lúc xã hội Ấn Độ phân chia giai cấp trầm trọng, các mối ngoại đạo thạnh khởi, mê hoặc lòng người, gây thành một trạng huống hỗn loạn, làm cho tâm trí con người đảo điên, đời sống mê mờ tăm tối. Ngài ra đời để đem đạo trí huệ soi sáng lòng người, đức từ bi phá tan giai cấp xã hội.

Ở Trung Quốc, Đức Khổng Tử ra đời cũng vào thời Xuân Thu chiến quốc, các nước thôn tính lẫn nhau, trật tự xã hội rối ren, đời sống nhân dân cùng khốn, luân lý suy đồi, cang thường đảo lộn. Ngài ra đời đem lại đạo nghĩa, chỉnh lại nhơn luân, xây dựng lại trật tự xã hội băng hoại, đào tạo nên hạng người quân tử làm mẫu mực trong đời.

Ở Trung Đông, Chúa Cơ Đốc giáng lâm cũng vào thời con người hung ác, xã hội mê lầm. Ngài đem tình bác ái ban rải khắp nơi, treo gương hy sinh cao cả biểu dương tình thương bất diệt.

Cứ theo thông lệ, các bực Thánh nhơn hay các đấng cứu thế lâm phàm, luôn luôn phải hội ít nhất ba điều kiện sau đây:

1. Thời cơ hay vận mạng của quốc gia mà bực Thánh nhơn chọn lâm phàm có đúng lúc cần đến sự giúp đỡ của Thánh nhơn để dạy dỗ nhơn dân chưa?

2. Hoàn cảnh có thuận tiện cho sự xuất hiện của Thánh nhơn chưa ? nghĩa là một xã hội băng hoại đang cần đến Thánh nhơn cứu vãn.

3. Cơ duyên của chúng sanh có chính mùi và có thuận cho sự giáo hoá của Thánh nhơn chưa ? nghĩa là Thánh nhơn đã gieo duyên với nhân dân ở một địa phương nào đó, nay Thánh nhơn ra đời, do nhân duyên đã gieo mà Thánh nhơn được chúng sanh hưởng ứng.

Nếu Thánh nhơn ra đời mà không hội đủ ba điều kiện trên đây, nghĩa là chưa hạp thời cơ, không hạp hoàn cảnh hay không có cơ duyên với chúng sanh thì chẳng những trên không hạp lòng Trời, mà dưới không hạp lòng người thì lấy ai hưởng ứng hầu cứu thế độ dân, hoàn thành sứ mạng.

Xét về trường hợp Đức Huỳnh Giáo Chủ, chúng ta nhận thấy:

Về điều kiện thời cơ, Đức Huỳnh Giáo Chủ có cho biết: “Vì thời cơ đã đến, lý Thiên đình hoạch định, cuộc nguy cơ thảm họa sắp tràn lan …”

Về hoàn cảnh, Ngài đã nhận: “Thiên Tào đã xét định, khắp chúng sanh trong thế giới trong buổi Hạ nguơn này, say mê vật dục, chìm đắm trong biển lợi danh, gây nên nghiệp quả, luật Trời đà trị tội, xét kẻ thiện căn thì ít, người tội ác quá nhiều, chư Phật mới nhủ lòng từ bi cùng các vì chơn Tiên lâm phàm độ thế, trước ra công cứu khổ, sau chỉ rõ cơ huyền, khuyên kẻ thế hướng thiện quày đầu, cải tà quy chánh thì mới mong Thiên đình ân xá bớt tội căn để kịp đến Long Hoa chầu Phật”.

Về khoản cơ duyên, Ngài đã nhận rằng:”Ta là một trong các vị cứu đời ấy. Ai liễu Đạo nơi quốc độ nào thì cũng phải trở về quốc độ ấy mà trợ tế nhân dân, vì thể lòng từ bi bác ái cùng thù đáp những linh hồn đã trợ duyên trong nhiều kiếp giúp ta nương cậy tu hành nên ngày 18 tháng 5 năm Kỹ mão, Ta hoá hiện ra đời cứu độ chúng sanh …”

Đức Huỳnh Giáo Chủ xuất thế cũng ở trong hoàn cảnh tương tợ như Đức Phật Thích Ca ở Ấn Độ, Đức Khổng Tử ở Trung Quốc và Chúa Cơ-Đốc ở Do Thái, nghĩa là ở vào thời kỳ xã hội băng hoại, luân lý suy đồi, nhơn dân đồ thán.

Trong suốt thời gian ngót 80 năm dưới ách đô hộ nghiệt ngã của ngoại bang, nước Việt Nam đã lâm vào tình trạng cực kỳ đen tối, hủ hóa cả hai phương diện Đời và Đạo.

A – VỀ PHƯƠNG DIỆN ĐỜI: Tháp tùng theo đoàn binh viễn chinh xâm lược, ngọn gió Tây Âu tràn vào Việt Nam làm ngả đổ thuần phong mỹ tục của ngàn xưa. Tiêm nhiễm lấy nền văn minh vật chất, trọng ở sự phù phiếm xa hoa về thể xác hơn tinh thần, người đời đua chen theo những thói hư tật xấu, làm bại hoại gia đình, hư hèn phong hóa.

I – Về gia đình: Việc loạn luân cang kỷ, càng ngày càng chất ngất, như giữa cha con thì mất cả hiếu từ, giữa vợ chồng thì mất cả ân nghĩa, giữa anh em thì mất cả kính thuận, giữa bè bạn thì mất cả thành thật, giữa chủ tớ thì mất cả trung tính . . . Ngoài ra, giữa tôi chúa không còn trung nghĩa, giữa thầy trò mất cả kỉnh thành. Nói tóm lại đạo luân thường đã hư hèn bại hoại:

Gẫm nhiều người bội bạc thâm ân.
Nào kể chi là đạo Quân Thần,
Tôi giết chúa, con đành sát phụ.
Lúc nguy cơ tớ mong hại chủ,
Trò giết thầy tội ấy đáng không?
Thêm chồng giết vợ, vợ giết chồng,
Niềm huynh đệ cùng nhau xâu xé.
Cũng hiếm lúc con còn giết mẹ,
Giành của tiền cốt nhục giết nhau.
Tranh lợi danh giết lẫn đồng bào,
Tình nhân loại phân chia yểm bách.

II – Về phong hoá thì xã hội càng ngày càng đồi bại, nảy sanh ra nhiều hạng người: đàng điếm chơi bời, gian phi hung ác, ích kỷ sâu dân . . .

[1] Hạng đàng điếm chơi bời không lúc nào thạnh hành bằng từ khi có ngọn gió vật chất thổi mạnh vào làm cho con người say mê.
a) Quen thói chè chén say sưa vất mả, la ó đánh đập, sanh ra lắm việc tồi tàn;

b) Đàng điếm đĩ thỏa, son phấn lả lơi, trêu hoa cợt nguyệt, bày trò dâm loàn, khả ố;

c) Đấu kê đổ bác, dối gạt lận lường, thua thiếu nợ nần sanh ra cướp giựt;

d) Hút xách nghiện ngập, cạo ống vét nồi, cầm quần bán áo, làm những điều hèn hạ nhuốt nhơ.
Về vấn đề này, Đức Huỳnh Giáo Chủ đã khéo trách thiện trong mấy vần thơ dưới đây:

Ở thị thiềng đua chen xướng khởi,
Những tuồng hư do bọn gái lẫn trai.
Nào hút thuốc phiện hội ve chai,
Nào trùm đĩ ma cô, nghề hút máu.
Ai để mắt nhìn xem châu đáo,
Chẳng khỏi than dùm dân tộc quá hư hèn.
Diện áo quần son phấn lấn chen,
Miễn cho mình được lên xe xuống ngựa.
Mảng điểm tô huy hoàng nhà cửa,
Ai khốn cùng để mặc đất, trời xoay.

[2] Hạng gian phi là những kẻ:
a) Chuyên sống về nghề khoét vách đào tường, năm này tháng nọ chẳng chịu ra sức làm ăn, ngoài ra còn bày mưu này kế nọ lường gạt kẻ làm ăn chơn chất mà lòng không chút ăn năn cải hối.

b) Chuyện sống về nghề mua giựt bán giành, buôn lậu đầu cơ, lường cân tráo đấu, hại kẻ quê mùa dốt nát, vì mình mà sống cơ cực thiếu thốn.
Về hạng này, Đức Huỳnh Giáo Chủ thường khuyên:

Việc bán buôn phải giữ ngang cân,
Chớ tập tánh lận lường tráo đấu.
Các công cuộc của người tánh xấu,
Ta giữ gìn chớ có nhiễm vào.

c) Chuyên sống nghề cho vay cắt cổ, vốn một lời mười, thi hành phát mãi, ở đợ nát lời gây nên một cảnh trạng bức hiếp thê thảm cho kẻ cô thân bần tiện.

[3] Hạng hung ác là những người:
a) Chưởi cha mắng mẹ, rủa xả chòm riềng, không kiêng già cả, kêu réo Thánh Thần, miệng không ngớt lời độc ác với kẻ trong nhà cũng như người ngoài ngõ.

b) Ỷ khôn lanh húng hiếp những người hiền lương khờ khật, từ miếng ăn cho đến thức mặc đều đặt trên lẽ hung tàn ác độc

[4] Hạng ích kỷ là hạng người chỉ biết sống riêng, ngày tháng cứ bo bo giữ của, không lòng bố thí. Chẳng những thế mà lại còn tham lam vùa hốt của người một cách sâu hiểm.

[5] Hạng sâu dân là hạng người giá áo túi cơm, phỉnh gạt dân chúng bằng ngòi viết ngọn roi khiến cho đám dân đen phải sống dưới sự đán áp bóc lột mà họ vẫn ngang nhiên không biết xấu xa hổ thẹn. Về hạng này Đức Huỳnh Giáo Chủ đã lắm phen thống trách như mấy vần thơ dưới đây:

Đời cũng lắm bao người giá áo,
Nương bã vinh nhiều hạng túi cơm.
Thấy dân ngu trong dạ sẵn hờm,
Quyết kiếm thế đặng toan lừa dối.

[6] Hạng người ngộm là hạng người:
a) Vô ích trong xã hội, sống một cách trơ trẽn dưới sự ám ảnh của nhục dục, chỉ biết ăn với ngủ, không khác gì đời sống của con vật. Về hạng này trong Sấm giảng có đoạn tả như vầy:

Đời lắm kẻ đầu trâu mặt ngựa,
Coi sự sống như Tiên nưa nửa;
Mê mồi thơm như cá lục châu
Sao chẳng lo thức tỉnh quày đầu,
Cho khỏi thẹn với người Thượng cổ.

b) Vô liêm sĩ, chỉ vùi đầu óc trong cuộc truy hoan dật lạc, lo chưng dọn hình vóc lả lơi, bày trò bướm ong hoa nguyệt một cách nhơ nhuốt tối tăm. Chẳng những thế mà lại còn tự phụ vào mớ học văn minh cặn bã, trở lại phỉ báng ông cha, khinh chê cổ tục, không chút liêm sĩ thẹn thùa. Về hạng này, Đức Huỳnh Giáo Chủ không ngớt than phiền như mấy câu dưới đây:

Văn minh sửa mặt sửa mày,
Áo quần láng mướt ngày ngày ăn chơi.
Dọn xem hình vóc lả lơi,
Ra đường ăn nói những lời nguyệt hoa.
Trong tâm chứa những điều tà,
Lời ăn tiếng nói thật là quá lanh.
Xưng là đầu trẻ tuổi xanh,
Chẳng trau hiền đức học hành làm chi?
Khôn ngoan thời những chuyện gì,
Cũng là lừa dối vậy thì dân quê.
Người xưa nó lại khinh chê,
Ông cha hủ bại u mê hơn mình.
Tự do trai gái kết tình,
Với lo trau sửa cho mình đẹp tươi.
Gái trai đến tuổi hai mươi,
Chẳng kiêng cha mẹ nói cười lả lơi.
So hình sửa sắc chiều mơi,
Đặng làm những chuyện trái đời vô liêm.
Cớ sao chê cổ trọng kim,
Phụ cha phản chúa lỗi niềm tôi con.
Thấy đời trần hạ thon von,
Ai nuôi cho lớn mà còn khinh khi.
Ông cha thuở trước ngu si,
Mà ngay mà thật hơn thì đời nay.
Học hay lợi dụng tiền tài,
Lên quan xuống huyện ăn xài lả lê.
Gặp ai đói rách cười chê,
Miệng kia hễ mở chưởi thề vang rân.
Chẳng lo rèn trí lập thân,
Để làm xảo trá khổ thân sau này (*)

 ________________________________________________________________
(Chú thích: (*) Thanh Sĩ và Vương Kim: Để Hiểu Phật Giáo Hoà Hảo, tr 55-59)

Trên đây là trạng huống đồi trụy của xã hội Việt Nam về phương diện Đời, đến như về phương diện Đạo, tinh thần đọa lạc cũng không kém.

B – VỀ PHƯƠNG DIỆN ĐẠO: Nước ta từ ngàn xưa đã tiêm nhiễm đạo Nho và đạo Phật là hai mối đạo làm nền tảng cho phong hóa kỷ cương, xây dựng nên quốc thạnh dân cường, đào tạo nên hạng người anh hùng tiết liệt làm rạng rỡ cho quê hương đất nước.

Nhưng mấy lúc gần đây, những nền đạo lý nhân nghĩa tốt đẹp ấy đã bị làn sóng văn minh vật chất lôi cuốn, khiến cho thất chơn truyền và một ngày một suy lạc.

I – Về Đạo Nho thì thuyết tu, tề, trị, bình luân thường đạo nghĩa của ngàn xưa đã đến hồi suy vi hủ bại. Kẻ học Nho ngày nay không còn mấy người được phong độ quân tử, đem đạo Thánh Hiền truyền bá trong dân gian, chấn chỉnh cang thường đạo nghĩa, gây nên một học phong sĩ khí mà chỉ đem cái sở học ra áp dụng vào những việc buôn y bán  lễ, làm thơ cợt nhã trêu đời, coi như dưới mắt không ai, hiêu hiêu tự đắc.
Về hạng hủ Nho nầy, Sấm Giảng có đoạn biểu trạng như vầy:

Đàng nhu thầy lễ cũng kỳ,
Mắc phải chuyện gì phủ phục bình hưng.
Lại thêm đờn địch từng tưng,
Đem con heo sống mà dưng làm gì.
Chủ gia kẻ lạy người quì,
Làm chuyện dị kỳ giả dối hay không?
Nếu không thì trả lời không,
Bằng mà có dối thì hòng sửa đi.
Thương đời Ta luống sầu bi,
Học Nho cứ mãi làm thi ngạo đời.
Rung đùi ngâm chuyện trên trời,
Tình duyên cá nước vậy thời dỗ con.
Thấy đời Ta cũng héo von,
Học Nho mà chẳng làm tròn nghĩa nhơn. (*)

________________________________________________________________________________________
(Chú thích: (*) Thanh Sĩ và Vương Kim: Để Hiểu Phật Giáo Hoà Hảo, tr.59)

Về hiện trạng suy đồi của đạo Nho, ông Thanh Sĩ có viết: Trong nước chúng ta, trước kia hầu hết trong nước từ hàng vua quan đến dân dã đều đồng nhất hưởng ứng lý thuyết của Khổng Tử là tu về nhân đạo. Mỗi người điều phải học việc: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Việc này, phô trương khắp xứ, ai cũng biết. Sau khi biết nhân, nghĩa, lễ, trí, tín rồi họ thật hành, như: Tôi trung với vua, con hiếu với cha mẹ .v.v. dù ai cũng vậy. Nhưng từ sau ngày nước nhà bị trị, nghĩa là kể từ đời vua Tự Đức trở lại đây, làn sóng văn minh phương Âu tràn vào xứ sở, bôi xóa tất cả thành tích đạo nghĩa trước kia của dân tộc; từ đó đạo nghĩa bị bôi lọ tất cả, đổi lại lắm thói tồi bại trong xứ sở. Vì thế đạo luân thường phai dần đi, cho đến ngày nay, mặc dù có nhiều chùa miễu, nhiều tổ chức trùng hưng đạo Thánh Hiền, nhưng không trở lại như cũ. (*)

________________________________________________________________________________________
(Chú thích: (*) Chú nghĩa loạt bài Huấn Luyện Đạo Đức của Ban Hoằng Pháp tại Tây An Cổ Tự, tr 122).

         
II – Về Đạo Phật: Đạo Nho đã thế, đạo Phật cũng không hơn gì.
Trên lịch sử Việt Nam, Phật Giáo đặt vững cơ đồ ở đời Lý đời Trần. Nhưng trải qua bao cuộc thăng trầm của đất nước, chánh pháp cũng theo thời gian mà suy dần trong dĩ vãng. Thừa lúc loạn lạc, Trịnh Nguyễn phân tranh, rồi tiếp theo thực dân đô hộ non một thế kỷ, tinh thần dân chúng hoang mang mất cả tự tin; những lối tu yếm thế, mê tín dị đoan pha màu phương thuật lại được dịp xây dựng quy mô, làm cho nền giáo pháp dân tộc phải thối triều trong khoảng thời gian ngót năm thế kỷ.

Ông Thanh Sĩ cũng nhận tình tệ suy đồi của đạo Phật ở Việt Nam như sau:
Cùng một cảnh huống đạo Khổng tử, đạo Phật Thích Ca ở xứ ta hồi thời nhà Đinh, Lê, Lý, Trần rất thịnh đạt, không những trong dân chúng mà luôn đến hàng vua chúa cũng cùng một tin tưởng mạnh mẽ …

Nhưng kể từ khi các vị Tổ bên Trung Hoa ngưng việc truyền y phó bát đến nay, phái Thần Tú càng lúc càng thêm mạnh, không những ở Trung Hoa mà còn truyền qua xứ ta, họ bày ra cách thờ cúng đầy thinh, âm, sắc, tướng (đờn đẩu, trống phách, lầu phướn xá hạc .v.v..) làm việc hữu hình, hữu ảnh, dân chúng xứ ta dần dần theo đó mà xa lần mối đạo Vô vi chánh pháp của Phật. Nền chánh giáo từ đó ngày càng lu, các ngôi chùa miếu phần nhiều chỉ là cái vỏ để các tà sư làm mê hoặc thập phương lợi dụng việc no cơm ấm áo vậy thôi, chớ họ không chủ vào việc dắt người đến chỗ sáng sủa giải thoát. (*)

________________________________________________________________________________________
(Chú thích: (*) Chú nghĩa loạt bài Huấn Luyện Đạo Đức của Ban Hoằng Pháp tại Tây An Cổ Tự, tr.122).

Về những lưu lệ do Thần Tú bày ra, như làm thầy đám, bày chuông mõ, lầu phướn xá hạc, làm trai đàn, bày lắm trò âm thinh sắc tướng . . . đã được Sám Giảng mô tả trong những đoạn sau:

Lũ thầy đám hay bày trò khỉ,
Mượn Kinh Luân tụng mướn lấy tiền.
Chốn Diêm Đình ghi tội liên miên,
Mà tăng chúng nào đâu có rõ.
Theo Thần Tú tạo nhiều chuông mõ,
Từ xưa nay có mấy ai thành;
Phật từ bi độ tử độ sanh,
Là độ kẻ hiền lương nhơn ái.
Xá với phướn là trò kỳ quái,
Làm trai đàn che miệng thế gian,
Kẻ vinh hoa phú quí giàu sang,
Mướn tăng chúng đặng làm chữ hiếu.

Ngoài những tệ đoan vừa kể, còn nhiều điều sai lầm khác nữa như khoác áo thầy tu làm nhưn bông tụng mướn, bày việc đốt giấy tiền vàng bạc, cúng kiếng chè xôi, bày trò hát Phật mà trong Sám Giảng của Đức Huỳnh Giáo Chủ đã vạch trần nhiều đoạn sai lầm giả dối:

Kinh với Sám tụng nghe thảnh thót,
Lũ nhưn bông tập luyện đã rành:
Đẩu với đờn kèn trống nhịp sanh,
Làm ăn rập đặng đòi cao giá.
Tâm trần tục còn phân nhơn ngã,
Thì làm sao thoát khỏi luân hồi;
Những giấy tiền vàng bạc cũng thôi,
Chớ có đốt tốn tiền vô lý.
Xưa Thần Tú bày điều tà mị.
Mà dắt dìu bá tánh đời Đường;
Thấy chúng sanh lầm lạc đáng thương,
Cõi âm phủ đâu ăn của hối.
Đúc Phật lớn chùa cao bối rối,
Mà làm cho Phật giáo suy đồi;
Tu vô vi chớ cúng chè xôi,
Phật chẳng muốn chúng sanh lo lót.
Tăng với chúng ưa ăn đồ ngọt,
Nên bày ra cúng kiếng hoài hoài;
Ỷ nhiều tiền chẳng biết thương ai
Cúng với lạy khó trừ cho đặng.
Kẻ nghèo khó tu hành ngay thẳng,
Không cầu siêu Phật bỏ hay sao?
Lập trai đàn chạy chọt lao xao,
Bôi lem mặt bày tuồng hát Phật.
Nay nhằm lúc mùa màng ngập thất,
Vậy hãy mau bỏ bớt dị đoan.

Cao Đài Giáo cũng nhận thời kỳ nầy Tam Giáo đã thất truyền nên nhơn sanh lần lần tiêu Đạo Đức, phế tinh thần, mới chuộng sự hữu hình, nên bày những âm thinh sắc tướng. Không ai còn để ý lưu tâm đến chổ thâm huyền cao viễn, chỉ ưa sự dễ dàng, tạn thấy tạn nghe, rồi cứ dãy lòng nhơn dục tham mê, mới gây tội án nặng nề, phải mang lấy sừng lông mà bị thối hóa lại súc sanh và luân hồi lục đạo.

Sự thất chơn truyền ấy đã biểu lộ ra các biến tướng trong Tam Giáo.

1/ Đạo Thích, Đạo Thiền bày dị đoan từ thời Thần Tú làm mê hoặc nhơn sanh. Vậy cũng phổ độ, cũng giựt giành mà chỉ đem con người vào đường u ám, lạc lầm. Kinh Sấm truyền lại mà không khảo cứu, kiếm tầm cho ra chơn lý, chẳng trí tham thiền, không gom thần nhập định.

2/ Còn Nho Giáo, sau đời Mạnh Tử, càng ngày càng lạc lầm, đường thiên lý chẳng cần, chổ thâm nhiệm không rõ, chỉ học đặng khoe tài hay giỏi, dục lợi cầu danh, tổn nhơn ích kỷ, chớ không chịu học để sửa mình, tầm hiểu cho tột cùng cái lý cao siêu huyền bí, cái cơ nguồn cội muôn loài . . . (*)

________________________________________________________________________________________
(Chú thích: (*) Đại Thừa Chơn giáo tr 428).

Nói tóm lại, xã hội Việt Nam, sau ngày bị Pháp đô hộ, đã băng hoại cả hai phương diện đời sống vật chất và tinh thần.

Nhan nhản những cảnh tượng đồi trụy xảy ra khắp hang cùng ngõ hẻm, lắm trò bại lý thương luân.

Nơi thành thị vật chất hào hoa đã đánh mất bao nhiêu mầm non của đất nước, sống với dâm ô, cờ bạc rượu chè, nhà thổ á phiện, gục ngã trên đường trụy lạc.

Chốn thôn quê, tệ lậu mê tín dị đoan gieo rắc ủy mị yếu hèn trong tâm hồn nông dân thiếu học. Đa số đồng bào chịu cảnh mù chữ. Đời sống đều quây quần theo thầy bùa, thầy pháp, thầy ngải, thầy lỗ ban, xin xâm bói quẻ , hối lộ Thánh Thần, sống cùng ma quỉ, làm ngăn cản con đường tiến thủ quốc gia, tiêu trầm đức tự tín dân tộc.
Người đời phó thác tánh mạng cho thầy pháp thầy phù, cho ma quỉ. Hằng đêm cùng làng khắp xóm, vang lên tiếng trống tiếng kèn, tiếng hò hét của thầy pháp, của nhưn bông, của đồng bóng.

Đầu óc của hạng dân quê thất học đã thế, đến như hạng thanh niên tân học thì trái lại, một khi cặp sách đến trường là xây mộng làm quan, riêng hưởng vinh hoa phú quý trên mồ hôi nước mắt của đám dân đen chất phác.

Đến như giới cần lao thì chịu đựng số phận tôi đòi, bị bóc lột, khủng bố mà không dám than van, phản kháng.

Chính trong hoàn cảnh đen tối thê thảm ấy, Đức Huỳnh Giáo Chủ ra đời.


Chương II: Thân-thế [trở lại đầu trang]

Sanh trưởng: – Đức Huỳnh Giáo Chủ, tên tộc là Huỳnh Phú Sổ, sanh tại làng Hòa Hảo một thôn nằm trên Bắc ngạn sông Vàm Nao, thuộc Quận Tân Châu, Tỉnh Châu Đốc, ngày 25 tháng 11 năm Kỷ Mùi, tính ra nhằm ngày 15 tháng giêng năm 1920.

Thân sanh của Ngài là Đức Ông Huỳnh Công Bộ, lúc bấy giờ làm Hương Cả làng Hòa Hảo. Thân mẫu của Ngài là Đức Bà Lê Thị Nhậm. Đức Ông có hai đời vợ, đời vợ trước sanh được hai gái, hiện nay người chị thứ hai còn sống góa chồng, còn người em thì đã chết. Khi bà lớn mất, Đức Ông tục huyền với bà Lê Thị Nhậm và sanh được ba người con:

Con đầu là Đức Huỳnh Giáo Chủ.
Con thứ là Huỳnh Thị Kim Biên.
Con út là Huỳnh Thạnh Mậu.

Cô Huỳnh Thị Kim Biên, nay là Bà Lâm Đồng Thanh, còn cậu Huỳnh Thạnh Mậu thì đã bị V.M giết năm 1945, vì đã tham gia cuộc biểu tình chống độc tài Cộng Sản, do anh em tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo tổ chức tại Cần Thơ ngày mồng 3 tháng 8 năm Ất Dậu, nhằm ngày 8-9-1945.

Ngày 2 tháng 9 năm Ất Dậu chúng đem cậu ra hành quyết, cùng một lúc với:
Trần Văn Hoành con của Trần Văn Soái,
Nguyễn Xuân Thiếp tức thi sĩ Việt Châu.

Hiện nay tại sân vận động cũ, anh em tín đồ có xây mộ bốn liệt sĩ Hòa Hảo (trong đó có một ngôi mộ vô danh) và cất miếu thờ, hằng năm đều có làm lễ kỷ niệm vào ngày mồng 2 tháng 9 âm lịch.

Đức Huỳnh Giáo Chủ thường được gọi là Thầy tư Hòa Hảo hay tôn xưng Đức Huỳnh Giáo Chủ còn tín đồ thì gọi Ngài là Thầy hay Đức Thầy, và nền đạo của Ngài khai sáng được mang danh là Phật Giáo Hòa Hảo, một tông phái đạo Phật thành lập tại làng Hòa Hảo. Từ trước đến nay, việc lấy địa danh làm tông danh là điều thường thấy trong đạo Phật. Như Phái Thiên Thai Tông bên Trung Hoa sở dĩ thành danh là vì xây dựng già lam trên núi Thiên Thai cũng như phái Trúc Lâm Yên Tử ở nước Việt Nam chúng ta được thành danh cũng do Ngài Điều Ngự Giác Hoàng tức vua Trần Nhân Tông khai sáng một Thiền phái Việt Nam trên núi Yên Tử, Tỉnh Quảng Yên.


Tánh tình: 
Ngay từ khi còn bé, Ngài đã tỏ ra hơn người trong mọi phương diện. Tánh Ngài điềm đạm, ít chịu trửng giỡn cợt đùa, thường tìm nơi thanh vắng ngồi trầm tư mặc tưởng. Ngài không thích đờn ca xướng hát; vì thế những chỗ hội hè đình đám, những nơi tụ hợp đông người, Ngài luôn luôn xa lánh.

Từ lúc bé bỏng, Ngài đã có tánh hiếu sanh, không chịu bắt bướm, chuồn chuồn hay bắt dế để chọi nhau chơi. Những thú vui như đá cá thia thia, đá gà, những thú vui có ý sát hại, hay làm tổn thương thì Ngài không thích. Có lần Ngài ra ruộng, gặp con cóc, Ngài la lên nhưng đến khi các trẻ khác bu lại kiếm bắt thì Ngài lấy chơn đè lấy con cóc cho mọi người không nhìn thấy. Đến khi chúng bạn tản ra, Ngài mới lấy chơn lên cho con cóc thoát nạn. Lòng hiếu sanh của Ngài đã biểu lộ qua nhiều cử chỉ nhơn từ thương xót các loài vật.

Ngài có tánh cả thẹn đối với phụ nữ. Khi đến tuổi trưởng thành, hễ ai đề cập đến vấn đề hôn nhơn là bị Ngài phản đối ngay. Ngài thường tuyên bố: thích sống độc thân để được tự do hoạt động.


Học lực: 
Từ khi cập sách đến trường, Ngài đã tỏ ra xuất sắc hơn chúng bạn. Ban sơ, Đức Ông cho Ngài học các lớp sơ đẳng tại trường Hòa Hảo lúc bấy giờ tạm lấy nhà Công sở trước đình thần làm trường sở. Năm 1950, Công sở bị dở; nay là Thư viện Hòa Hảo. Cứ như được biết niên học năm 1927-1928, Ngài đã học với ông Giáo Phan Văn Khoái.

Sau khi học hết các lớp sơ đẳng ở Hòa Hảo, Đức Ông cho Ngài tiếp tục học tại trường Tiểu học bổ túc Tân Châu với ông giáo Lê Văn Tám dạy lớp nhì, năm thứ nhất (Cours Moyen I). Trong lúc ấy, Ngài ở trọ nhà ông Huỳnh Văn Sánh, thợ bạc ở Tân Châu. Sau khi đậu bằng Tiểu học (Certificat dEtudes élémentaires), Ngài phải thôi học vì bịnh hoạn, mặc dầu Đức Ông đủ sức cho Ngài tiếp tục học thêm nữa.


Sức Khỏe: –
Thật ra thì lúc nào Ngài cũng đau ốm luôn, không mấy khi được khỏe mạnh. Lâu lâu lại phát lên cơn sốt rét dữ dội, vì vậy mà Ngài xanh xao ẻo lả, có lúc mất ăn mất ngủ nhiều ngày, xem chừng bịnh tình trầm trọng lắm, có thể chết được.
Đức Ông Đức Bà hết sức lo buồn, hằng kiếm thầy chữa trị mà bịnh vẫn không thấy thuyên giảm. Ban đầu còn chạy chữa ở những thầy thuốc Bắc thuốc Nam trong làng mà không hết, trái lại bịnh trạng thì xem khác thường khi mạnh khi yếu khiến mọi người nghi là mắc bịnh tà và nghĩ đến cách chữa trị bằng pháp thuật bùa ngải.
Nghe đồn ở núi Trà Sư có ông Thầy Xom hay Đạo Xom, tục danh là Lê Hồng Nhật một tu sĩ nổi tiếng giỏi pháp thuật, đã từng chữa mạnh nhiều bịnh bằng bùa ngải. Đức Ông bèn cho chở Ngài đến nhưng rốt cuộc cũng không thấy hiệu quả.

Ngoài ra, Đức Ông còn đưa Ngài xuống ông Bảy Còn ở chợ Cà Mau thôn Long Kiến nhờ chữa trị. Ông Bảy là cháu nội của ông ĐạoThắng một cao đệ của Đức Phật Thầy Tây An và đã được truyền nhiều diệu pháp để cứu dân độ thế. Ông Đạo Thắng truyền lại cho thân phụ ông Bảy và ông này truyền trao lại cho ông Bảy tiếp tục nghiệp ông cha. Ông Bảy vốn là người thân thuộc của Đức Ông nên Đức Ông rất tin cậy, đưa Ngài đến nhờ chữa trị. Ban đầu thấy có mòi thuyên giảm nhưng về sau bịnh vẫn không thấy gì thay đổi.

Nghe đồn ở Mặc Cần Dưng có ông Lục Cả chữa bịnh tà rất hay, Đức Ông cũng lo chở Ngài đến nhờ chữa trị, nhưng bịnh Ngài không khác gì giả ngộ, mới thấy nguy kịch đó, lại liền thấy mạnh khỏe.

Như lần chở Ngài đi, sau bảy ngày bỏ ăn bỏ ngủ, tưởng là nguy kịch lắm, chẳng ngờ lúc đi ghe, Ngài lấy cơm nguội ra ăn hết hai tô lại uống thêm hai tô nước sông. Phàm người bỏ ăn năm bảy ngày, muốn ăn lại phải cho uống nước cháo rồi lần lần cho ăn cháo lỏng, dạ dày mới chịu nổi. Vậy mà Ngài vẫn khỏe như người thường và không thấy sao cả.

Lúc bấy giờ lại có tin đồn bếp Ngoan, tục danh là Lê Minh Chiếu, ở Chợ Vàm một tay lão luyện về bùa ngải của Miên và Xiêm, từng học với Thầy ngải ở Tà Lơn và chữa lành các bịnh bị thư, bị ngải hay mắc bịnh tà. Trong lúc bức ngặt, Đức Ông cho chở Ngài lên Chợ Vàm, nhưng bếp Ngoan chữa cũng trơ trơ.

Điều đáng lo ngại nhứt là mấy lúc sau nầy, Ngài lại vướng thêm bịnh huợt tinh khá trầm trọng. Do chứng bịnh nầy mà Ngài trở nên xanh xao vàng vọt, con người tiều tụy, không còn thiết gì đến việc học hành. Về sau Ngài có thổ lộ cho một tín đồ ở Bạc Liêu biết: đó là ơn trên định dọn phần xác tinh khiết, chẳng khác nào sút ve cho sạch trước khi đựng lấy nước trong.


Ra làm bịnh: 
Bắt đầu từ năm Kỷ Mão, năm Ngài được 21 tuổi, sau khi thôi học về nhà, Ngài thường tỏ ra nhiều cử chỉ kỳ lạ, khi thì nằm thim thíp, bỏ ăn bỏ ngủ, lúc thì mạnh mẽ như người không bịnh, đi đứng như thường, nói năng hoạt bát.
Đức Ông cũng như bao nhiêu người khác, đều cho Ngài có tà ma quỉ quái chi dựa vào nên mới có trạng thái khác thường như vậy.

Mặc dầu, Đức Ông lo chữa chạy cho Ngài tận tình, nhưng Ngài thì cứ nói rằng không có bịnh chi cả, vì nể Đức Ông nên mới đi chạy thầy chạy thuốc như vậy.

Một hôm, Ngài đi lên đầu trên xóm dưới truyền rao: nếu ai có mắc bịnh chi, cứ đem lại cho Ngài chữa trị cho. Thấy vậy Đức Ông bĩu môi: Bịnh mình chề ề như vậy mà không lo, còn đòi đi chữa bịnh người ta.

Ban đầu không ai tin Ngài có thể chữa bịnh, nhưng có một vài bịnh ngặt nghèo, kể như hết phương cứu chữa, nghe Ngài nói chữa được nên cũng liều đem đến, may ra có phép Tiên phép Phật gì chăng. Vả lại, Ngài không có làm chi nguy đến tánh mạng con bịnh, hơn nữa phương pháp của Ngài dùng để chữa hay thuốc thang của Ngài cho uống không có gì nguy hiểm. Vì vậy mà người ta đánh liều chở bịnh đến nhờ Ngài cứu chữa. Nhưng lạ lùng thay, bịnh nào Ngài chịu chữa cũng đều được mạnh lành, mặc dầu đã tốn bao nhiêu tiền của và thuốc men.

Do cách chữa trị huyền diệu ấy mà tiếng đồn lan rộng ra. Nhứt là từ ngày Ngài chữa bịnh cho con gái của ông Hương chủ Hùng ở Hưng Nhơn mắc bịnh trùng, thập tử nhứt sanh, đã chạy chữa đủ thầy pháp thầy bùa trong vùng mà không hết. Nghe Ngài chữa bịnh bằng phương pháp huyền diệu nên chở ra nhờ Ngài chữa trị.

Ngài dùng nước rải vào mặt bịnh nhân khiến bất tỉnh, ngất xỉu. Ngài bỏ đó, thân nhân lấy làm lo ngại, nhưng Ngài bảo khiêng vào nhà sau, đợi đến giờ Tý, Ngài sẽ chữa cho. Quả nhiên khi đến giờ, Ngài đem một chén nước lã bảo cạy miệng ra đổ. Trong chốc lát, cô ấy tỉnh lại rồi mạnh luôn và từ đó gia đình của Hương chủ Hùng không còn lo ngại về bịnh trùng nữa. Bắt đầu từ khi chữa dứt bịnh trùng cho gia đình ông Hương chủ Hùng, tiếng tăm của Ngài vang dậy khắp nơi. Chừng đó ngày nào người ta cũng nườm nượp chở bịnh đến, nhứt là các bịnh điên hay bịnh tà, xưa nay có tiếng là hung dữ không ai chữa nổi, nay chở đến chật nhà chật cửa.

Lúc bấy giờ nhà Đức Ông chật nức, nào bịnh nhơn, nào những người hiếu kỳ đến xem chữa bịnh, chen nhau không còn chổ trống. Có nhiều con bịnh hết sức hung tợn, ở nhà la ó hay hành hung không ai dám lại gần, phải dùng thế bắt trói mới đem đi được. Thế mà khi đến Ngài, Ngài bảo lấy dây chuối cột tay dẫn lên, bịnh nhơn riu ríu đi theo không chống cự. Cũng có con bịnh chưa chịu phép, còn la ó hay múa tay múa chơn, Ngài rút chiếc khăn quăng ra và hét: Chư Thần đâu . . . để vậy sao? Hét vừa dứt tiếng thì bịnh nhơn chạy đến chụp lấy chiếc khăn quấn vào tay, càng siết chặt hai tay lại, vừa khóc lóc van lơn xin Ngài tha thứ.

Ngài nói: Nếu biết ăn năn thì hãy xuất ra, người ta có vợ có chồng rồi, đừng có xen vào phá gia cang người ta. Hãy hứa không còn phá nữa, ta mới dung thứ.
Con bịnh khóc lóc hứa từ nay không còn dám phá nữa. Ngài bảo mở trói, con bịnh tự tháo chiếc khăn ra. Ngài dạy lại lễ Phật, cho uống một chén nước lã rồi ra về.

Ngoài bịnh trùng, bịnh điên, Ngài còn chữa nhiều thứ bịnh khác nữa, như dịch tả, phung đơn, nhứt là cai thuốc phiện, bỏ rượu một cách tài tình.

Phương pháp chữa trị của Ngài hết sức giản dị, Ngài cho uống nước lã, hoặc giấy vàng hay giấy nhựt báo xé nhỏ ra. Về phương dược thì các thứ lá cây như: lá xoài, lá ổi, lá mít . . ., các thứ bông như: bông trang, bông thọ. Còn về niệt để đeo thì dùng chỉ trắng se lại, có khi không có chỉ thì dùng dây chuối, dây bố . . .

Chỉ có bấy nhiêu dược liệu, hết sức giản dị, không tốn tiền mà bịnh nào uống vào cũng khỏi. Lạ nhứt là những người ghiền á phiện hay ghiền rượu, chỉ uống nước lã mà bỏ rượu bỏ á phiện cái một, không hành phạt chi chi cả.
Ngoài ra Ngài cũng có cho toa thuốc Bắc, ai có mắc bịnh, cứ theo đó bổ về sắc uống: mười bịnh hết mười, khỏi phải đem đến Ngài chữa trị. Những phương thuốc còn ghi chép trong quyển “Sấm Giảng Thi Văn Toàn Bộ”. Đến ngày nay nhiều người mắc bịnh đã theo toa thuốc ấy hốt về uống vẫn thấy hiệu nghiệm như một thứ thuốc Tiên.

 

Chương III: Ra tế-độ [trở lại đầu trang]

Gây đức tin:  Sở dĩ Ngài trổ tài “dùng huyền diệu của Tiên gia” chữa bịnh một cách thần diệu như thế là để chứng tỏ Ngài không phải là hạng phàm nhơn. Như mọi người đều biết; từ nhỏ đến lớn Ngài có học thuốc với ai đâu, thế mà nay bỗng dưng chữa bịnh, chữa đâu hết đó, nhứt là những bịnh đau tà hay điên cuồng thì càng làm cho người đời phải đặt ra câu hỏi: Đây có lẽ là một vị Tiên, Phật, Thánh, Thần chi chi mượn xác phàm để ra đời cứu thế chăng?
Từ chỗ nghi ngờ phát sanh lòng tin tưởng (Nghi sanh tín). Đức tin đó càng ngày càng tăng trưởng là do hành động hay phương pháp chữa trị của Đức Huỳnh Giáo Chủ.

a) Chữa căn chớ không chữa quả, nghĩa là bịnh nào đau căn thì Ngài nhận chữa, còn bịnh nào đau về quả thì Ngài từ chối. Như có lần (ở Nhơn Nghĩa) có một bịnh điên chở đến; Ngài cũng cho uống thuốc và làm cho con bịnh bớt điên, nhưng Ngài bảo thân nhân chở về nhà, rán cầu nguyện và làm phước may ra mới bớt. Điều này chứng tỏ Ngài soi rõ căn quả của con bịnh, bịnh nào thuộc về căn, bịnh nào thuộc về quả. Đó cũng là bằng chứng rằng Ngài là bực siêu phàm mới có năng khiếu ấy.

b) Trong lúc chữa trị, với những bịnh hung tợn, Ngài thường kêu gọi chư Thần, chư vị sai khiến, như bảo trói hay khảo tra thì liền sau đó con bịnh tự trói lấy, tự lấy roi đánh vào người rồi lăn lộn than khóc, van xin Ngài đừng cho khảo tra nữa để nó cung khai. Ngài sai khiến được chư thần như thế, hẳn Ngài là bực phi phàm, Phật Tiên Thần Thánh chi chi mới có uy lực sai thần tróc quỉ như vậy.

c) Có nhiều chứng bịnh. Ngài không chữa bằng phương pháp huyền diệu như cho uống lá cây hay các thứ bông mà lại bằng phương pháp thường của một vị lương y như bao nhiêu lương y trong làng, nghĩa là ra toa, rồi cầm toa ấy đến tiệm thuốc Bắc, hốt thuốc về sắc uống. Ngài có học thuốc Bắc hồi nào đâu, thế mà Ngài viết các tên thuốc rất đúng, đến các thầy thuốc Bắc cũng phải kinh ngạc. Điều này chứng tỏ Ngài không phải là hạng người thường nhơn.

d) Mỗi khi Ngài chữa bịnh, thường bắt con bịnh uống nước cúng Phật và khi lành mạnh, bắt phải lạy bàn thờ Phật. Ngoài ra Ngài còn dạy khi về nhà rán niệm Phật và cầu nguyện, làm lành lánh dữ. Sau ngày Ngài chánh thức mở đạo, nếu có ai muốn qui y thì thì Ngài nhận cho qui y và bắt phải học các bài nguyện rồi về lập bàn thờ Phật, hằng đêm lễ bái. Điều nầy chứng tỏ Ngài qui ngưỡng theo Phật, một vị siêu phàm trong hàng ngũ Phật Thánh.

đ) Từ ngày Ngài ra chữa trị, độ bịnh cứu đời, thường sai khiến chư thần chư vị thì những đồng bóng hay cốt ông nầy bà nọ không còn dám về đồng hay nhập cốt nữa. Chủ nhơn quá tha thiết cầu thỉnh thì có vị về cho biết rằng: Nay có Phật, Bồ Tát ra đời cứu dân độ thế, uy lực rất lớn nên chúng không dám về đồng hay bén mảng lại gần, vì tự nhận thấy mình là phần còn ăn thịt uống rượu, nên không dám lại gần các hàng Phật Thánh, sợ bị chư thần chư vị đánh đuổi.

Do đó mà người trong làng được biết đến phần thiêng liêng hay Đức Huỳnh Giáo Chủ về mặt siêu hình là một vị có phẩm trật cao siêu trong hàng Phật Thánh.

Do những phương pháp chữa trị huyền diệu, cũng như ngôn hành của Đức Huỳnh Giáo Chủ thi thiết đối với đời mà người ta nhận Ngài là một đấng siêu phàm. Hoặc vì nhờ được ” mạnh mà cảm lòng từ bi của chư vị với Trăm Quan“, nên người đời qui ngưỡng theo Đức Huỳnh Giáo Chủ và đặt cả đức tin vào sự cứu độ của Ngài.
Nói tóm lại, sở dĩ Ngài “dùng huyền diệu của Tiên gia” độ bịnh là để gây lấy lòng cảm mến, rồi từ cảm mến được cứu độ mà người đời đặt cả đức tin vào sự giáo độ của Ngài.

Thuyết giảng:
– Để gây niềm tin vào tâm não của mọi người, ngoài phương pháp “dùng huyền diệu của Tiên gia“, chữa bịnh, Đức Huỳnh Giáo Chủ còn thuyết giảng những giáo lý cao siêu của Đạo Phật “cho kẻ có lòng mộ Đạo qui căn, gây gốc thiện duyên cùng Thầy Tổ“, Ngài thuyết giảng cả ngày lẫn đêm mà không biết mỏi. Ngoài bịnh nhơn đến chữa trị, nay thêm hạng người đến nghe Đạo lý xin thơ bài, thành thử nhà Đức Ông không còn chỗ chứa.

Chính phương pháp giảng thuyết đã thu hút đông người hơn lối chữa trị huyền diệu, vì trong những lời thuyết giáo có ẩn ý thiên cơ, thức tỉnh lòng người hầu ăn năn cải hóa làm lành lánh dữ.

Nhứt là Ngài ám thông tâm lý, biết rõ lòng người, nói rất đúng như người ở trong nhà. Không ẩn khúc nào có thể giấu giếm Ngài được. Ngài còn thấu cả tiền căn hậu kiếp của mỗi người qua thơ bài của Ngài viết tặng, càng làm mọi người khâm phục qui ngưỡng càng lúc càng đông. Chúng (?) tin tưởng Ngài là một vị siêu phàm có sứ mạng xuống trần cứu dân độ thế.

Lối nói của Ngài rất hấp dẫn. Ai nghe cũng cảm, vì Ngài hết sức bình dị và luôn khiêm tốn, không hề xưng hô lớn lối.

Vừa thuyết giảng, vừa cho bài thơ, đượm nhuần giọng văn tao nhã, sực nức lời lẽ cao siêu của Đức Phật, vì vậy có mãnh lực giác tỉnh phi thường người đời phát tâm Bồ Đề, qui đầu chánh pháp.

Sau một thời gian chữa bịnh và thuyết giảng đem niềm tin tưởng vào lòng người, Ngài cảm thấy cơ duyên đã đến cho Ngài thọ lấy sắc lịnh của Thiên Đình mở cơ phổ hóa, giác tỉnh quần mê hầu có hoàn thành sứ mạng tuyển chọn người hiền đến Hội Long Hoa và lập đời Thượng Nguơn an lạc.

Lễ Cáo Hoàng Thiên: – Phàm làm một việc gì, trước khi lãnh lấy trách nhiệm, như vị Tổng Thống hay Thủ Tướng chẳng hạn, phải làm lễ ra mắt, tuyên cáo quốc dân. Hồi thời xưa muốn đưa một vị tướng lên cầm quân, như Văn Vương chọn Khương Tử  Nha hay Hớn Bái Công chọn Hàn Tín làm tướng đều có tổ chức lễ đăng đàn bái tướng để chánh thức phong tướng và đồng thời trao ấn tín cho vị tướng ấy có đủ uy quyền ra cầm binh khiển tướng, thi hành nghiêm lịnh.

Trường hợp của Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng thế. Trước khi chánh thức lãnh Sắc lịnh của Thiên Đình ra cứu dân độ thế. Ngài cũng phải tổ chức lễ Cáo Hoàng Thiên để chánh thức nhận lấy trách nhiệm.

Ngài chọn ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão làm lễ Cáo Hoàng Thiên. Cứ theo lời ông Nguyễn Văn Truyền, nguyên Kiểm soát trong Ban Trị Sự xã Hòa Hảo kể lại thì chính ông lãnh việc trang trí một bàn hương án trước sân nhà Đức Ông. Trên bàn ấy có để ba cái chung nước, một chén bông, một lư hương và một cặp đèn.

Sau khi bàn hương án đã dọn, Ngài cho mời Đức Ông là chủ nhà ra chứng kiến, nhưng Đức Ông không chịu ra; đến khi bà Tám em Đức Ông và nhiều người thân thuộc lại yêu cầu nhiều lần cực chẳng đã, Đức Ông mới nhận, nhưng để mình trần ra ngồi bẹp xuống bực thềm trước nhà và nói một câu cụt ngủn: Đó, làm gì thì làm đi.
Đức Thầy bèn đốt hương xá bốn hướng rồi quay lại bàn hương án khấn vái một hồi lâu mới cắm hương và lễ bốn lạy.

Thế là cuộc lễ Cáo Hoàng Thiên đã xong. Ông Truyền lại có phận sự dẹp bàn hương án như khi đã dọn ra.

Viết Sấm Giảng: – Đã chữa bịnh, đã thuyết giảng, tuy đã gây được niềm tin ở một số người, nhưng chưa chỉ pháp môn tu hành là điều mà những người muốn tu hành cần phải có, để nương theo đó mà tu học hầu cho đắc thành quả vị Phật Thánh hay hoàn toàn giải thoát.
Vì vậy, sau khi làm lễ Cáo Hoàng Thiên, Ngài chăm chú vào việc viết Sấm Giảng, để trình bày hay phổ truyền giáo pháp của Ngài. Người ta có thể do nơi đó để biết rõ Ngài có phải là một bực Chơn Sư và giáo pháp của Ngài có phải là Chánh pháp không?
Ngài viết dễ dàng, không cần đến giấy nháp. Tác phẩm của Ngài phần lớn thuộc loại văn vần, với tác dụng là để cho hạng dân quê ít học, dễ đọc và dễ nhớ. Vả lại loại văn vần có sức truyền cảm hơn loại văn xuôi.

Sau đây là những quyển giảng của Ngài đã viết:

1. Sấm Giảng khuyên người đời tu niệm. – Đây là quyển thứ nhứt có 912 câu, viết tại Hòa Hảo vào khoảng sau khi làm lễ Cáo Hoàng Thiên năm Kỷ Mão (1939). Trong quyển giảng nầy, đại ước, Ngài cho biết trước khi trực tiếp giáo độ chúng sanh, Ngài đã phương tiện hóa hiện dạo lục châu, giả dạng người già kẻ trẻ, kẻ buôn bán ăn xin, chèo đò rước khách . . . để có dịp đánh thức người đời rằng có Phật Tiên xuống thế.
Có nhiều bằng chứng xác nhận dấu vết cuộc châu du của Ngài.

Như trường hợp cô Lê Thị Cứng ở Hòa Hảo mất trộm được Ngài nhắc việc cô nầy coi bói ở những câu như sau:

Có người ở xóm bằng nay,
Bị mất trộm rày đồ đạc sạch trơn.
Du thần bày tỏ nguồn cơn,
Rằng người nghèo khó đang hờn phận duyên.
Điên nghe vội vã quày thuyền,
Dùng khoa coi bói giải phiền phàm nhơn.
Coi rồi bày tỏ nguồn cơn,
Xin cô đừng giận đừng hờn làm chi.

Cô Cứng xác nhận, sau khi mất trộm, có một chiếc ghe chở bốn người, trong đó có một người tự nhận làm thầy bói, ghé nhà cô để coi bói.

Một đoạn nữa trong Sấm Giảng nói về trường hợp ông chủ Phối ở lòng Ông Chưởng mà Ngài ghé nhà đàm đạo với ông Đạo Ba như Ngài đã đề cập trong Sấm Giảng:

Xuống thuyền xuôi nước thẳng xông,
Ghé nhà chủ Phối xem lòng Đạo Ba.
Ngồi chơi đạo lý bàn qua,
Mấy bà có biết lúa mà bay không?
Có người đạo lý hơi thông,
Xin ông bày tỏ cho tôi hiểu rày.
Điên nghe liền mới tỏ bày,
Lúa bay về núi dành rày ngày sau.
Hỏi qua tu niệm âm hao,
Không biết câu nào trái ý Đạo Ba.
Buồn đời Điên mới bước ra,
Tay gay chèo quế dạo mà khắp nơi.

Khi đọc đến đoạn giảng nầy ông Đạo Ba nhìn nhận có y như vậy.
Ngoài ra còn trường hợp của ông năm Hẳng ở làng Kiến An thường xưng là Quan Vân Trường mượn xác mà Ngài có ghé, như đoạn sau đây đã thổ lộ trong Sấm Giảng:

Thảm thương bá tánh lắm ôi!
Bồng Lai Tiên cảnh rao rồi một khi.
Nếu ai rảnh việc thời đi,
Còn mắc nợ thì ở lại dương gian.
Có người xưng hiệu ông Quan,
Tên thiệt Vân Tràng ở dưới Dinh Ông.
Thấy đời cũng bắt động lòng,
Ghé vào tệ xá thẳng xông lên nhà.
Mình người tu niệm vậy mà,
Nói chi lớn tiếng người mà khinh khi.
Người nhà cảm tạ một khi,
Cúng năm cắc bạc tiền đi non Bồng.

Việc nầy ông năm Hẳng cũng nhìn nhận là đúng sự thật có một ông già râu tóc bạc phơ ghé nhà ông thuyết giảng và chính ông có cúng năm cắc bạc, tiền đi non Bồng.

Còn nhiều bằng chứng khác nữa ghi dấu Ngài có đi dạo Lục Châu, khi giả dạng người nầy người khác mà phần đông đều được mục kích hay đàm luận.

2. Kệ dân của người Khùng. – Đây là quyển thứ hai, có 476 câu, viết tại Hòa Hảo ngày 12 tháng 9 năm Kỷ Mão (1939)
Đại ý quyển nầy, Ngài chỉ vạch máy huyền cơ cho nhơn sanh được biết, có sớm hồi đầu trở lại tinh tấn tu hành hầu được cứu rỗi trong ngày tận diệt hay vãng sanh Cực Lạc như đoạn giảng sau đây:

Nhìn cuộc thế đổi thay quá gắt,
Máy thiên cơ mỗi phút một thay.
Nẻo thạnh suy như thể tên bay,
Đường vinh nhục rủi may một lát.
Ai phú quí vào đài ra các,
Ta Điên Khùng thương hết thế trần.
Khuyên chúng sanh chẳng biết mấy lần,
Nào ai có tỉnh tâm tìm Đạo.

        Hay là:

Đến chừng đó bốn phương có giặc,
Khắp hoàn cầu thiết thiết tha tha.
Vậy sớm mau kiếm chữ Ma ha,
Thì Phật cứu khỏi nơi khói lửa . . .

Đồng thời Ngài đem chánh pháp vô vi của Đức Phật Thích Ca đối kháng lại giáo pháp âm thinh sắc tướng của Thần Tú đang thạnh hành:

Khuyên sư vãi mau mau cải hối,
Làm vô vi chánh Đạo mới mầu.
Đạo Thích Ca nhiều nẻo cao sâu,
Hãy tìm kiếm cái không mới có.
Ngôi Tam Bảo hãy thờ Trần đỏ,
Tạo làm chi những cốt với hình,
Khùng nói cho già trẻ làm tin,
Theo Lục Tổ chớ theo Thần Tú.

Hay là:

Theo Thần Tú tạo nhiều chuông mõ,
Từ xưa nay có mấy ai thành.
Phật từ bi độ tử độ sanh,
Là độ kẻ hiền lương nhơn ái.
Xá với phướn là trò kỳ quái,
Làm trai đàn che miệng thế gian.
Kẻ vinh hoa phú quí giàu sang,
Mướn tăng chúng đặng làm chữ hiếu.
Thương bá tánh vì không rõ hiểu,
Tưởng vậy là nhơn nghĩa vẹn toàn,
Thấy lạc lầm Đây động lòng son,
Khuyên bổn đạo hãy nên tỉnh ngộ.

3. Sấm Giảng. – Đây là quyển thứ ba, gồm có 612 câu, viết tại Hòa Hảo vào năm Kỷ Mão (1939). Đại ý quyển nầy đoạn đầu mách cho biết những tai nạn hãi hùng gớm ghê trong lúc biến di, như đoạn sau đây:

Thương đời Ta mượn bút nghiên,
Thở than ít tiếng giải phiền lòng son.
Bắt đầu cha nọ lạc con,
Thân nầy thương chúng hao mòn từ đây.
Minh Hoàng chưa ngự đài mây,
Gẫm trong thế sự còn dày gian truân.
Đò đưa cứu kẻ trầm luân,
Đặng chờ vận đến mới mừng chúa tôi,
Thảm thương thế sự lắm ôi!
Dẫy đầy thê thảm lắm hồi mê ly.

Hay là:

Lao xao bể Bắc non Tần,
Quân Phiên tham báu xa gần cũng qua.
Tranh phân cho rõ tài ba,
Cùng nhau giành giựt mới là thây phơi.
Khổ lao đà sắp đến nơi,
Thế gian bớt miệng kêu mời cõi âm.

Đồng thời dạy cho trai gái lớn nhỏ biết cách ăn thói ở đúng theo luân thường đạo nghĩa; có như thế mới mong sống sót trong những ngày lập hội, như đoạn giảng sau đây:

Nào là luân lý tứ ân,
Phải lo đền đáp xác thân mới còn.
Ai mà sửa đặng vuông tròn,
Long Hoa đến hội lầu son dựa kề.

 Dạy về bổn phận làm trai:

Dạy rồi cái đạo tu hiền,
Làm trai nhỏ tuổi tình duyên đang nồng.
Cũng đừng ghẹo gái có chồng,
Cũng đừng phá hoại chữ đồng gái trinh.
Ra đường chọc ghẹo gái xinh,
Nữa sau mắc phải yêu tinh hư mình.
Xử cho vẹn chữ nghĩa tình,
Vâng lời cha mẹ mà gìn gia cang.
Nghiêm đàng chịu lịnh cho an,
Loạn luân cang kỷ hổ han tiếng đời.
Anh em đừng có đổi dời,
Phụ phàng dưa muối se lơi nghĩa tình.

Dạy về bổn phận làm gái:

Lớn lên phận gái cần chuyên,
Làm ăn thì phải cho siêng mới là.
Phải gìn dục vọng lòng tà,
Đừng chiều theo nó vậy mà hư thân.
Nghe lời cha mẹ cân phân,
Tam tùng vẹn giữ lập thân buổi nầy.
Tình duyên chẳng kíp thì chầy,
Chớ đừng cải lịnh gió mây ngoại tình.

4. Giác mê tâm kệ. – Đây là quyển thứ tư, gồm có 846 câu, viết tại Hòa Hảo ngày 20 tháng 9 năm Kỷ Mão (1939).

Đại để trong quyển nầy, Ngài tuyên giáo pháp môn hành đạo của Đức Phật Thích Ca như Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo . . . cho người đời noi theo đó tu hành cho đắc quả.

Ngài không dứt khuyên chúng sanh rán tìm diệu lý trong Sấm kinh và rán làm tròn nhơn đạo, vì là thời kỳ chư Phật Thánh tuyển chọn người hiền đức. Và chỉ người hiền đức mới được sống còn sau ngày hoại diệt của cõi thế gian.

Trong bá tánh muốn nơi cao quí,
Phải truy tầm huyền bí nơi cơ.
Từ Sám kinh cho đến thi thơ,
Trong chốn ấy nhiều nơi trọng yếu.
Tạo làm chi những trung với hiếu,
Ấy là người bổn phận phải trau.
Khuyên dương trần đừng nệ cần lao,
Cũng rán sửa rán trau nền đạo.
Tu đầu tóc không cần phải cạo,
Miễn cho rồi cái đạo làm người.
Kể từ nay lỡ khóc lỡ cười,
Vì buồn bực thấy đời biến chuyển.
Các chư Phật từ đây lựa tuyển,
Coi ai là đức hạnh hiền từ.
Lời sách xưa cận thủy tri ngư,
Cận sơn lãnh trần gian tri điểu.
Trong Sấm giảng nếu ai không hiểu,
Tầm kệ nầy Ta chỉ nẻo đường.
Quyết dạy trần nên nói lời thường,
Cho sanh chúng đời nay dễ biết.

        5. Khuyến Thiện. – Đây là quyển thứ năm, gồm có 756 câu, viết tại Chợ Quán năm Tân Tỵ (1941).
        Trong quyển nầy, Ngài kể lại gương xuất gia tầm đạo của Phật Thích Ca:

Nói cho đời hiểu Phật Thích Ca,
Lòng tự giác xả thân tầm Đạo.
Ta cũng chẳng hoàn toàn thông thạo,
Nhưng phân cùng bổn đạo xa gần.
Có một điều già trẻ ân cần,
Là phải biết nguyên nhân Phật giáo.

Sau đó Ngài khuyên người đời tu theo pháp môn Tịnh độ để cầu sanh về Cực Lạc, vì trong thời kỳ mạt pháp nầy, đây là một Pháp môn cứu cánh, phù hạp với căn cơ của tất cả chúng sanh trong thời Nguơn hạ:

Môn Tịnh độ là phương cứu cánh,
Rán phụng hành kẻo phụ Phật xưa.
Lòng từ bi chẳng quản nắng mưa,
Xông thuyền giác rước đưa sanh chúng . . .

Hay là:

Lòng thương chúng thuyết phương Tịnh độ.
Đặng dắt dìu tất cả chúng sanh.
Nếu như ai cố chí làm lành,
Chuyên niệm Phật cầu sanh Phật quốc.
Cả vũ trụ khắp cùng vạn vật,
Dầu Tiên, Phàm, Ma, Quỉ, Súc sanh;
Cứ nhứt tâm tín nguyện phụng hành,
Được cứu cánh về nơi an dưỡng.
Chỉ một kiếp Tây phương hồi hướng,
Thoát mê đồ dứt cuộc luân hồi.

        Ngoài ra, Ngài còn kể lại Tám điều khổ của chúng sanh và khuyên trừ Thập ác.

6. Những điều sơ lược cần biết của kẻ tu hiền. – Đây là quyển thứ  sáu, viết trong vòng tháng 5 năm 1945 tại Sài Gòn, theo lối văn xuôi (tản văn) khác hơn 5 quyển trước viết theo lối văn vần (vận văn).

Trong quyển nầy, Ngài giải thích Tứ Ân, Thập Thiện, Bát Chánh và những nghi thức hành đạo cần biết của một tín đồ.

Ngoài ra Ngài còn viết nhiều bài rời và cho thi văn rất nhiều mà sau nầy anh em tín đồ kết tập lại thành quyển “Thi văn Giáo Lý” gồm trên 500 trang kể cả những toa thuốc Nam để trị bịnh cho bá tánh thập phương.


        Những bộc lộ của Sấm Giảng.

        Trong Sấm Giảng có câu:

Rút trong các luật các kinh,
Tùy lòng không ép làm in giảng nầy.

Câu nầy đủ minh chứng những điều Ngài giảng đều rút tỉa tinh lý của Phật trong Tam Tạng Kinh là Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng. Thế sao các tác phẩm của Ngài không gọi là Kinh hay Luận mà gọi là Sấm Giảng.

       Sấm có nghĩa là những lời tiên tri cho biết trước về thời cuộc, Giảng là bày giáo lý cao siêu của Đạo Phật.

Do sự tiên tri cho những điều sắp xảy ra về cõi đời Hạ nguơn sắp chấm dứt để bước sang cõi Thương nguơn, những tai biến hãi hùng trong những ngày hoại diệt cõi đời mạt kiếp nầy mà người đời thức tỉnh giác mê nhận cõi đời nầy là giả tạm hầu có sớm ăn năn cải hối tu hành theo Đạo Phật thì mới mong được Phật Thánh Tiên cứu rỗi, sống sót trong ngày lập đời Thượng Nguơn an lạc.

        Về việc bộc lộ thiên cơ (Sấm) chúng ta có thể phân tách ra hai sự việc:

1. Tiên tri thời cuộc: – Trong Sấm Giảng, Đức Huỳnh Giáo Chủ đã tiên tri nhiều việc ngày nay đã thấy ứng hiện, càng tăng trưởng đức tin của tín đồ vào sự giác ngộ của Ngài.
Như tiên tri về sanh hoạt đắt đỏ, sưu cao thuế nặng, kinh tế suy sụp, tiền bạc mất giá…

Ngồi Khùng trí đoái nhìn cuộc thế,
Thấy dân mang sưu thuế mà thương;
Chẳng qua là Nam Việt vô vương,
Nên tai ách xảy ra thảm thiết.
Bạc không cánh đổi thay chẳng biết,
Vàng bị nghèo mấy chiếc chẳng còn.

Hay là:

Thương hại bấy lê dân đứt ruột,
Thảm vợ con đói rách đùm đeo;
Gẫm chữ nghèo thường mắc chữ eo,
Thêm gạo lúa lại tăng giá mắt.

Hoặc là:

Hết đây rồi đến dị kỳ,
Sưu cao thuế nặng vậy thì thiết tha.

Về thảm cảnh thì:

Mai sau nhiều cuộc đất cày,
Đua nhau mà chạy lầu đài cũng xa.

Hay là :

Trong bổn đạo từ đây kim chỉ,
Đói với nghèo sắp tới bây giờ.

Những thảm cảnh ấy, ngày nay đã thấy ứng hiện trước mắt mọi người. Cũng như Ngài đã cho biết trước trận thế chiến thứ hai, khởi từ năm Mèo (1939) và chấm dứt năm Gà (1945) ở những câu:

Mèo kêu bá tánh lao xao,
Đến chừng Rồng Rắn máu đào chỉn ghê.
Con Ngựa lại đá con Dê,
Khắp trong trần hạ nhiều bề gian lao.
Khỉ kia cũng bị xáo xào,
Canh khuya Gà gáy máu đào mới ngưng.

Còn nhiều lời tiên tri khác nữa nói về thời cuộc, nhưng đây chỉ kể vài việc đã ứng hiện để chứng minh là Ngài mách trước trong Sấm Giảng có thật, chẳng kíp thì chầy ứng hiện không sai.

2. Cho biết chuyển kiếp. – Trong bài “Sứ mạng của Đức Thầy” có đoạn nói rằng: “Tuy là nhơn dân mới rõ pháp mà tưởng rằng Ta thượng xác cỡi đồng chớ có dè đâu chuyển kiếp đã từ lâu chờ đến ngày ra trợ thế“. Ở một đoạn khác, Ngài lại viết: ” Những  kiếp gần đây, may mắn gặp minh sư, cơ truyền Phật pháp, gội nhuần ân đức Phật, lòng đã quảng đại từ bi, hềm vì nỗi cảnh quốc phá gia vong, máy huyền cơ đã định, lòng thương trăm họ vướng cảnh đồ lao, chi xiết xót thương chúng sanh vạn khổ“.

Và Ngài cho biết kiếp nầy là kiếp chót như ngài đã viết: “Ta nghĩ nhiều tiền kiếp ta cũng hy sinh vì Đạo nào quản xác thân. Kiếp chót này đây há lại tiếc chi thân phàm tục . . . “

Theo đó thì Ngài đã chuyển nhiều kiếp. Nhờ vậy mà khi đọc Sấm Giảng, ta không còn ngạc nhiên thấy nhiều đoạn, nhiều danh xưng trùng hợp với nhiều vị siêu phàm khác. Chẳng hạn như:

a) Xưng Khùng Điên: Điều mà ai cũng nhận thấy là các vị trong Bửu Sơn Kỳ Hương, từ Đức Phật Thầy Tây An trải qua Ông Sư Vãi Bán Khoai . . .  một khi lâm phàm cứu thế đều xưng hiệu Khùng Điên, ý chứng để đối lại người đời thường xưng khôn lanh quỉ quái.

       Đây ông Sư Vãi Bán Khoai xưng Khùng:

Khùng sao mà biết thiên cơ,
Cũng là Phật khiến cho Khùng dại điên.

       Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng xưng Khùng và cũng nhận biết thiên cơ:

Khùng toàn biết âm dương kết liễu,
Khùng huyền cơ, Khùng đạo Thích Ca.

Về xưng Điên, ông Sư Vãi có viết:

Điên nầy Điên Phật Điên Thầy,
Chẳng sợ ai rầy nên nói cù nhây.

Còn Đức Huỳnh Giáo Chủ thì là:

Điên như Ta, Điên giống Tiên Rồng,
Điên gở ách xích xiềng thế tục.

b) Đối chiếu tư tưởng. – Ngoài việc xưng hiệu Khùng Điên, còn nhiều tư tưởng trùng hợp giữa Đức Phật Thầy Tây An, ông Sư Vãi Bán Khoai và Đức Huỳnh Giáo Chủ.
Về nhan đề giảng sách, có sự trùng nghĩa trùng tên như:

Đức Phật Thầy Tây An có bài “Giác mê”, còn Đức Huỳnh Giáo Chủ thì có “Giác mê tâm kệ” tức quyển thứ tư trong bộ Sấm Giảng.

Ông Sư Vãi Bán Khoai có quyển “Sấm Giảng người đời” mở đầu bằng câu “Hạ nguơn Giáp Tý bằng nay”, thì Đức Huỳnh Giáo Chủ có quyển “Sấm Giảng khuyên người đời tu niệm” tức quyển thứ nhứt, cũng với câu mở đầu “Hạ Nguơn nay đã hết đời”.

Ngoài sự trùng nhan đề, còn nhiều đoạn trùng ý giữa ông Sư Vãi Bán Khoai với Đức Huỳnh Giáo Chủ. Như đoạn giảng sau đây nói về “Một Thầy ba Tớ”

Đây là lời ông Sư Vãi Bán Khoai tự thuật:

Chừng nào nước chảy đông nguồn,
Một Thầy ba Tớ hết đường lao đao.

        Hay là:

Nào khi nắng bụi bay tuôn,
Một Thầy ba Tớ chẳng buồn lại vui.

        Và đây Đức Huỳnh Giáo Chủ nói về “Một Thầy ba Tớ”:

Khùng thời ba Tớ một Thầy,
Giảng dạy dẫy đầy rõ việc thiên cơ.

        Ông Sư Vãi Bán Khoai còn cho biết cả danh hiệu của Thầy và Tớ nữa:

Huệ Lựu ký tả một bài,
Viễn ban châu quận hậu lai khán tường
.

Hay là:

Huệ Lựu bút ký tả rồi,
Đặng cho thiên hạ dấu soi để đời.

        Đức Huỳnh Giáo Chủ chẳng những lặp lại tên Thầy, còn cho biết tên tớ nữa:

Đừng thấy ngu dạy mà khi,
Thầy là Huệ Lựu, Tớ thì Huệ Tâm.

Ngoài sự trùng ngôn trùng ý, đánh dấu sự liên hệ tiền kiếp giữa ông Sư Vãi Bán Khoai và Đức Huỳnh Giáo Chủ, còn bức màn huyền vi giữa Đức Phật Thầy Tây An và Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng sẽ được vén lên, khi ta đọc những câu như sau:
Như khi Đức Huỳnh Giáo Chủ cho biết:

Khùng thời quê ngụ núi Sam
Còn Điên chẳng có chùa am dưới nầy.

        Núi Sam là nơi Đức Phật Thầy Tây An tịch, nay còn di tích là phần mộ không nấm của Ngài còn lưu dấu.

Một đoạn khác trong Sấm Giảng, Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng lặp lại di tịch núi Sam để cho người nhận ra chuyển kiếp của Ngài:

Thương lê thứ bày tường trong đục
Mặc ý ai nghe phải thì làm:
Lời của người di tịch núi Sam,
Chớ chẳng phải bày điều huyễn hoặc,
Cảnh Thiên Trước thơm tho nồng nặc.
Chẳng ở yên còn xuống phàm trần,
Ấy vì thương trăm họ vạn dân,
Nên chẳng kể tấm thân lao khổ.
Giả quê dốt khuyên người tỉnh ngộ,
Giả bán buôn thức giấc người đời.
Rằng ngày nay có Phật có Trời,
Kẻo dân chúng nhiều người kiêu ngạo.

Đọc qua các khoản trùng ngôn trùng ý và đối chiếu tư tưởng giữa Đức Phật Thầy Tây An, Ông Sư Vãi Bán Khoai với Đức Huỳnh Giáo Chủ, người đời nhận rõ sự chuyển kiếp của Ngài như Ngài đã xác nhận, khi viết: “Tuy là nhơn dân mới rõ pháp mà tưởng rằng Ta thượng xác cỡi đồng, chớ dè đâu chuyển kiếp đã từ lâu chờ đến ngày ra trợ thế”.
Do đó, ta không lấy làm lạ, ngoài những người chịu ơn cứu chữa hay phục tài ám thông tâm lý hoặc được cho thi bài soi tỏ căn cơ, đã đành thọ giáo qui y với Ngài, mà còn một số tín đồ của Đức Phật Thầy Tây An, ông Sư Vãi Bán Khoai hay những người trong giáo hệ Bửu Sơn Kỳ Hương, sau khi đọc Sấm Giảng đều chẳng ngần ngại qui ngưỡng theo Đức Huỳnh Giáo Chủ.

Tiếng đồn ngày một lan rộng ra, thu hút một số đông người đến thử thách.

Thử thách. – Từ ngày thi thơ, Sấm Giảng ra đời, sau khi đọc qua, có một số Nho gia hay phái tân học tầm đến thử thách, trước nhứt cho rõ tài cán của Ngài (không học mà thông), sau là tìm hiểu xuất xứ của vị siêu phàm xuống thế và sứ mạng vị ấy như thế nào?

Nếu kể ra hết các trường hợp thử thách thì quá dài, đây chúng tôi chỉ chọn ra một số điển hình để xác nhận về ám thông tâm lý và tài biện bác trác tuyệt của Ngài, ngoài hạng phi phàm chưa chắc đã đối đáp nổi một cách tuyệt luân như thế.

1. Thầy Ba Thận tức ông Phan Khắc Thận một nhà lão nho, học trò của cụ Tú Thường, một hôm được ông Huỳnh Hữu Phỉ đem thi bài của Đức Thầy về trao cho ông coi, trong đó có bài “Tam châu hữu ngạn”. Sau khi đọc, ông chê gì mà làm thơ nửa nạc nửa mỡ. Ông họa và gởi đến Ngài xin đáp lại.

Ngài bảo người mang thơ về nói: Ngài làm thơ là để khuyên người đời tu niệm, chớ không ra đời làm thơ để họa đáp.

Người mang thơ về thuật lại, ông Ba Thận nói: Như vậy tôi phải đến gặp ông mới được.
Sau đó, ông kêu 4 người  học trò giỏi nhứt của ông cùng đi với ông đến gặp Đức Thầy, sau hai đêm nặn óc làm hai bài thơ định thử  thách. Nhưng khi ông vừa bước đến nhà thì Ngài chạy ra tiếp và vồn vã: Bộ ông muốn làm thơ lắm sao ông lão. Liền đó, Ngài mời ông vào và bắt đầu câu chuyện mà trong đó Ngài đáp hết những điều ông lão muốn hỏi trong 2 bài thơ.

Đến khi ra về, người cùng đi theo hỏi sao không thấy ông đem hai bài thơ ra hỏi Ngài thì Thầy Ba Thận cho biết rằng trong lúc nói chuyện Ngài đã trả lời hết rồi mặc dầu hai bài thơ vẫn còn nằm trong túi áo.

2. Ông Hương sư Vàng, người ở làng Hòa Hảo, một hôm đem quyển “ Sấm Giảng Người Đời” của ông Sư Vải Bán Khoai đến toan thử Ngài, vừa bước vào nhà thì Ngài chận lại hỏi: Phải quyển ”Sấm Giảng Người Đời” của ông Sư Vải Bán Khoai đây không? Vừa nói, Ngài vừa lấy trong túi ông Hương Sự Vàng quyển giảng rồi trao cho ông này bảo dò coi Ngài đọc có trúng không?

Thế rồi Ngài đọc thuộc lòng: ông Hương Sự Vàng dò không sai một chữ, vô cùng ngạc nhiên, vì biết từ nhỏ đến lớn Ngài chưa hề gặp quyển giảng ấy.

Chẳng những thế, Ngài còn cho biết xuất xứ của quyển ấy: Tôi đã viết quyển giảng nầy mấy chục năm về trước khi tôi còn ở Cao Miên . . .

3. Ông Huỳnh Hữu Phỉ ở Chợ Vàm, một hôm mượn được quyển giảng “Lan Thiên” của ông Cử Đa từ Hà Tiên mang về, đem đến định hỏi Ngài. Nhưng khi ông Phỉ bước đến cửa thì Ngài khoác màn ra hỏi liền: Có phải quyển Giảng “Lan Thiên” đây không? Nói xong, Ngài thò tay vào túi ông Phỉ móc ra quyển Giảng, Ngài cuốn tròn lại rồi bắt đầu đọc từ trang đầu cho tới hai ba trang sau mới trao quyển Giảng lại cho ông Phỉ để dò lại coi có đúng như Ngài đã đọc không?

Ông Phỉ vô cùng ngạc nhiên vì quyển Giảng ấy có thể nói là lần thứ nhứt được thấy, bởi nó do một người tu ở Hà Tiên mang về, chưa ai biết đến, thế mà Ngài đọc ron rót không thiếu một câu không sai một chữ; nếu không phải là tác giả, vị tất đã thuộc làu như vậy.
         4. Họa thi:  Về việc họa thơ thách thức để xem tài, nhứt là làm thơ  bằng chữ Hán, có hai trường hợp đáng kể.

a) Trường hợp ông Huỳnh Hiệp Hòa ở làng Bình Thủy (Long Xuyên) là một nhà Nho có tiếng. Ông có làm bài thơ sau đây đem đến thách thức Ngài họa.

Phiến ngôn đại chấn điểm Nam cương,
Khẩu tụng Văn vương vị bốc tường.
Dữ thiện ngôn ngôn tung nhứt nhị,
Hành nhơn tịch tịch muội tâm lương,
Mã lai thủ thị danh thương pháp,
Thủy kiệt chưởng thâm tẩy khổ trường,
Thi vấn hồi âm tri bửu hiệu,
Tứ minh tam vị hiển văn chương,

Trong bài thơ nầy nếu chiết tự sáu câu đầu thì thấy ông Hòa có ẩn ý hỏi Ngài có phải: Trạng Trình, Cử Đa, Đề Thám không?
Ngài liền họa, cả vần bằng lẩn vần trắc, cũng bằng Hán văn như sau:

Hồi đầu điểm đạo chuyển phong cương,
Háo thắng bi ly đạo khổ tường.
Tề tướng Cam phong an diện nhị,
Hàn nhơn thọ khóa tác tâm lương.
Thiên tôn mật sát nhơn gian pháp.
Phật lý di khai đại hội trường.
Tam bá ngoại niên chơn bút hiệu,
Hàn lâm nhứt đấu vịnh thiên chương.

        Trong bài họa nầy, Ngài khéo léo cho biết danh hiệu Ngài. Nếu ta tinh ý sẽ thấy rõ ở hai câu kết.

b) Trường hợp ông Nguyễn Kỳ Trân tức Chín Diệm ở làng Định Yên, quận Lấp Vò, cũng là một bực túc nho đầy lòng ưu ái quốc gia, khi thấy Đức Huỳnh Giáo Chủ ra mở đạo, đem mùi tôn giáo khuyến dụ nhơn sanh sợ làm lợi cho bọn xâm lăng thống trị, nên có làm bài thi như sau:

Cường khấu xâm lăng kỷ thập niên,
Vị tri đại đức giáng, Hà Tiên?
Hi Di ngũ quí kim an tại,
Thái Thượng tam vương cổ bất truyền.
Độc nhãn sa đà tàng Bắc địa,
Liên mi chơn mạng ẩn Nam thiên.
Phòng ngư xích vĩ đương kim nhựt,
Dẫn lãnh minh lương trứ tổ tiên.

Trong bài nầy ông Diệm có ý trách Đức Thầy, đại ý nói rằng: Bọn giặc mạnh xâm lăng nước nhà đã mấy mươi năm rồi. Vậy không biết Ngài là vị Tiên chi xuống trần? Những bực như Hi-Đi (Trần Đoàn), Thái Thượng (Khương Tử Nha) đều đi ở ẩn đất Bắc trời Nam, chỉ thấy hiện giờ con cá đỏ đuôi (cờ tam sắc) khắp đất nước. Nếu Ngài là bực minh lương thì Ngài cũng nên đả một roi (tiên).

        Và đây là bài họa của Ngài, cũng bằng chữ Hán mặc dầu từ trước đến nay, Ngài chưa từng học:

Thiên ký Lạc Hồng đắc ngũ niên,
Sơn Trung hồi dã bí danh tiên.
Trần nhơn đãi thế Nam tồn tại,
Lão đạo tiền phong Bắc ý truyền.
Trình mỗ ngộ kim giai cổ địa,
Xích mi hải hội luật trừng thiên.
Dị phi minh đế đồ tôn nhựt,
Thạnh khí đào thinh giác kỷ tiên.

Trong bài nầy, chúng ta thấy Ngài họa chẳng những vận bình mà cả vận trắc nữa, đại ý trả lời bài thơ xướng và cũng nói rõ danh hiệu và quê quán của Ngài nữa. Ngài còn cho biết ở hai câu kết, thời kỳ của minh đế chưa đến, chớ khi đến rồi thì chẳng những đả một roi mà sẽ biết bao roi nữa.

Thật là tài tình, vì khi đưa thơ đến, Ngài liền họa ngay tại chỗ, cả vần bình lẫn vần trắc, với những câu chữ Hán trác tuyệt. Ở đây lượt bớt bài thứ hai, chỉ chép bài thứ nhứt của ông Chín Diệm và bài họa của Ngài.

5. Ông Bảy Còn tức ông Nguyễn Phước Còn ở gần chợ Cà Mau xã Long Kiến, quận Chợ Mới, và là cháu nội ông Đạo Thắng một trong Thập Nhị Hiền Thủ của Đức Phật Thầy Tây An. Những vị Hiền Thủ đều được Đức Thầy truyền diệu pháp nên có thần thông chữa trị bịnh nhơn bằng phương pháp huyền diệu, như uống nước lã, phù hay các thứ lá thứ bông. Khi ông Đạo Thắng tịch, truyền lại cho thân phụ ông Bảy Còn, rồi ông nầy đến lược truyền lại cho con cách chữa trị mầu nhiệm ấy.

Khi Đức Huỳnh Giáo Chủ mới phát bịnh, vì là chỗ quen thuộc với ông Bảy Còn nên Đức Ông chở Ngài xuống nhờ cứu chữa, nhưng chữa mãi mà vô hiệu.
Nay nghe tin Đức Thầy ra đời chữa bịnh và tỏ ra phi phàm thì ông Bảy không tin. Ông cho đó là ma quỉ chi chi, nên không chịu đến xem cho biết.

Theo lời ông Bảy cho biết: có một đêm, ông nằm mộng thấy chư Thần đến cho biết là Phật đã giáng thế ở Hòa Hảo. Thức dậy, ông cho đó là điều mộng mị nên không đi.

Một đêm khác, ông cũng nằm mộng thấy chư Thần kêu ông một lần nữa, nhưng ông cũng không tin.

Đến lần thứ ba, lần nầy chư Thần quở trách ông nên ông bắt đầu tin và định đi Hòa Hảo cho biết hư thiệt.

Cứ theo lời ông Bảy thuật, ông lại nhà ông Út, chú của Đức Thầy trước. Trong lúc ông đang chuyện vãng với ông Út thì Đức Thầy bước sang lại nắm tay ông mà nói rằng:

– Dữ hôn ! Đợi chư Thần đòi ba lần, ông mới chịu đi. Thôi mời ông qua nhà.

Khi ông Bảy bước sang, Đức Thầy mời ông Bảy ngồi rồi nói:
– Ông Bảy muốn thử tôi phải không?

Nói xong, Ngài bước vào trong lấy viết mực làm một bài thơ trao cho ông Bảy và nói:
– Ông đọc đi coi có phải không?

Bài thơ ấy là bài thơ khoán thủ cách cú mà Đức Phật Thầy Tây An đã mật truyền cho ông Đạo Thắng, dặn sau nầy có ai đưa ra bài thơ nầy tức là Ngài tái thế. Bài thơ ấy, nguyên văn như sau:

ĐẠT ĐẠO NGAO DU CHÂU DI VIỄN CẬN,
Đạt Đạo
hoằng khai kế nghiệp truyền,
Chư bang hành thiện hiếu vi tiên.
Ngao Du thế giới hoàn sanh chúng,
Quí tiện trí ngu trạch nhơn hiền.
Châu Di phục thỉ an bá tánh,
Thượng cổ hoàn ư thế tự nhiên.
Viễn Cận chư châu qui nhứt thống,
An cư lạc nghiệp phước vô biên.

         Nên để ý tám chữ khoán thủ cách cú: (Đạt Đạo Ngao Du Châu Di Viễn Cận) đều thuộc bộ Xước.

Ông Bảy trả lời là không biết chữ quốc ngữ nên nhờ Ngài đọc lại cho ông nghe.
Khi nghe xong, ông Bảy đã khâm phục rồi, nhưng Ngài còn làm thêm một bài nữa, tức bài “Bát Nhẫn” mà nội tổ ông Bảy đã chép trong phòng của Đức Phật Thầy và hằng lấy đó làm bài giáo huấn truyền lại cho con cháu. Đây là bài Bát nhẫn:

              BÁT NHẪN
Nhẫn Năng Xử Thế thị nhơn hiền,
Nhẫn Giái kỳ tâm thận thủ tiên.
NhẫnHương Lân hòa ý hỷ,
Nhẫn thành Phu Phụ thuận tình duyên.
Nhẫn Tâm nhựt nhựt thường an lạc,
Nhẫn Tánh niên niên đắc bảo truyền.
Nhẫn Đức bình an tiêu vạn sự,
Nhẫn Thành phú quí vĩnh miên miên.

Khi nghe xong bài “Bát nhẫn”, Ông Bảy xụp xuống lạy nhưng Đức Thầy đỡ dậy mà rằng: Không nên, ông Bảy. Phần xác đáng con cháu, ông lạy như thế không nên. Như ông muốn lạy, hãy lạy bàn Phật kia.    
6. Trường hợp đã qui y. – Đây không phải là một cuộc thử thách mà là một việc chứng tỏ thêm về sự ám thông tâm lý của Ngài. Nguyên có nhiều tín đồ sau khi đọc Sấm Giảng và học thuộc Bài Qui Y và Bài Ngũ Nguyện, tự đốt hương đến bàn Cửu Huyền và Bàn Thờ Phật, phát nguyện và qui y đúng như cách thức đã chỉ dạy trong quyển “Những điều cần biết của kẻ Tu Hiền” tức quyển Qui tắc hành đạo.

Mặc dầu ở nhà đã tự làm lễ qui y với ngôi Tam Bảo rồi, nhưng khi đến Ngài, lại xin Ngài chứng cho họ làm lễ qui y, ý chừng có được Ngài chứng giám mới có giá trị.
Nhưng Ngài đỡ lời mà rằng: Anh em đã qui y rồi, mặc dầu không có mặt tôi, nhưng tôi cũng đã chứng giám rồi. Một khi anh em tự làm lễ qui y là có tôi đến chứng. Vậy anh em khỏi làm lễ qui y một lần nữa.

Điều nầy đủ chứng tỏ Ngài đã ám thông tâm lý. Mọi việc gì người đời làm, thiện hay ác. Ngài đều rõ thấu, chẳng cần phải báo cáo, Ngài cũng tường lãm. Vì thế trong sách Nho có câu của Khổng Tử khuyên:”Thận kỳ độc”, nghĩa là nên cẩn thận lúc ở một mình trong phòng kín, vì lúc đó mặc dầu không có ai, nhưng ý nghĩ thầm kín của mình đều được Thần minh soi xét, rõ ràng như hành động ở ngã tư đường.

 


Chương IV: Đăng sơn [trở lại đầu trang]

Mặc dầu với phương pháp chữa bịnh một cách huyền diệu, cho thi bài, viết Sấm Giảng, đã tỏ ra “không học mà thông” và ám thông tâm lý tức đã có tha tâm thông, khiến cho dân chúng qui ngưỡng theo Đức Huỳnh Giáo Chủ một ngày một đông, thế mà Đức Ông vẫn không tin, Ngài tìm đủ cách khuyên Đức Ông tu hành, nhưng Ông Cả (lời Đức Thầy thường gọi) không chịu nghe chỉ lo cờ bạc rượu chè.

Có hôm Đức Bà lo cúng lạy, Đức Ông mới kêu ngạo: Khi Bà về Tây phương, cho tôi “có giang”. Đức Thầy đang nằm, vùng ngồi dậy nói: Nếu ông đi trước bà thì ông mới quá giang với ai. Ông nên biết: Ông tu Ông đắc, Bà tu Bà đắc.

Vẫn thấy Đức Thầy làm bịnh và bịnh nhơn thường ngất xiểu, Đức Ông lấy làm lo sợ, nên một hôm nói rằng: Nếu muốn làm bịnh phải lên non lên núi, lãnh sắc lịnh về làm, chớ làm lậu như thế nầy, có ngày thường mạng cả đám.

Nhơn câu nói đó, Đức Thầy mới gài Đức Ông: Như thế là tôi phải dắt phần xác đi núi.

Thấy vậy, Đức Ông nói: Nếu đi núi thì phải cho tôi đi theo để giữ phần xác chớ không thể đi một mình được. Do đó mà có việc đăng sơn. Cốt ý là Ngài muốn tăng trưởng đức tin cho một số người chưa hoàn toàn tin vào sự giáo độ của Ngài.

Có tất cả 4 kỳ đi núi.
1. Đăng sơn kỳ nhứt. – Đăng sơn kỳ nầy, Ngài dẫn Đức Ông đi núi Tà Lơn là một dãy núi nằm trong tỉnh Cần Giọt (Kampot) trên đất Cao Miên. Trong lúc chuẩn bị, có người hỏi Ngài: Trong lúc Ngài đi, có ai ở nhà tiếp tục chữa bịnh không? Ngài đáp: Ở nhà có ông Sơn (chỉ ông năm Chơn), cứ hỏi ổng thì biết hành trình mỗi ngày của tôi và nếu có ai đau ốm thì nhờ ông Năm chữa cho.

Quả thật khi Ngài đi rồi, mỗi ngày ông Chơn đều cho biết Ngài với ông Cả hiện ở đâu, ngủ tại núi nào. Khi Đức Ông trở về hỏi lại thật không có sai.

Trước khi lên đường, Ngài dặn Đức Ông đem đồ lớn theo, tức khăn đống áo dài để có lên núi làm lễ. Khởi hành vào buổi chiều và khi đến núi Sam thì tối. Đêm đó nghỉ tại Tây An Tự nhưng Ngài không ngủ, cứ thức ca hát suốt đêm. Ông sư trong chùa bảo ông Cả ra rầy Ngài thì Ngài trả lời: chùa nầy là của tôi, còn ông sư là người ở đậu.

Sáng ra, Ngài gặp cô Mười giữ mộ Phật Thầy bảo cô hãy xuống núi chớ nên ở lâu, rồi Ngài cùng Đức Ông lìa núi Sam. Khi đi Đức Ông có mua theo 4 ổ bánh mì, nhưng lần lượt Ngài bảo ông Cả cúng hết dọc đường. Ngài nói đi viếng cảnh Tiên Phật mà còn sợ đói. Sợ không có gì ăn, ông Cả có mua một mớ ổi xách theo, nhưng Ngài cũng không cho ăn. Trên đường đi qua Cao Miên, có xe Pháp từ Nam Vang chạy xuống Ngài bảo Đức Ông né một bên đường còn Ngài thì đứng dựa vào cột dây thép. Khi đến Sóc Mẹt (Tuk Meas) Ngài có ghé chữa bịnh cho một đứa trẻ, con người Miên. Cha mẹ nó không biết tiếng Việt, Ngài lại nói tiếng Miên, mặc dầu từ trước đến nay Ngài chưa hề học.

Chiều hôm ấy, Ngài dẫn Đức Ông lên núi, thì trời đã tối. Đêm đó, Đức Ông thấy 2 con cọp, cặp mắt sáng tợ đèn xe thì hoảng hốt bụm mắt lại. Thấy vậy, Ngài nói: Không sao đâu. Họ đến ủng hộ mình đó. Liền đó Ngài ra lịnh cho hai ông hổ đi.

Sáng ngày Ngài dắt Đức Ông đi, khi lội suối, khi trèo đèo rất vất vả, đến một cái hồ đầy sen, lá to lớn, cọng bằng đầu gối, gương bằng cái nia. Ngài nói đây là thứ lá sen Tây vức, Đức Ông than đói, Ngài chỉ nước dưới ao, Đức Ông lấy tay bụm lên uống thì thấy khỏe khoắn vô cùng.

Đi hết ngày, đêm lại ngủ. Trước khi ngủ, Đức Ông ra ngoài bẻ cỏ làm dấu đến chừng sáng dậy thì không phải chỗ cũ mà đã dời đi một nơi khác.

Đi được một đoạn đường, Đức Thầy tự nhiên ngồi xuống khóc mà rằng: Ông ơi! Không còn ai trong mình tôi nữa, chắc phen nầy phải bị cọp ăn. Đức Ông đâm ra lo sợ thì Ngài phá lên cười và trấn tỉnh Đức Ông.

Đêm đến, Đức Ông thấy bốn ông cọp. Hôm sau khi khởi hành, Đức Ông thấy lạnh buốt cả người. Ngài nói chư Thần thấy Ông ngộ nên vuốt ve chớ không sao. Đi được một đoạn đường Ngài bảo Đức Ông mặc đồ lớn vào, rồi chỉ một người ngồi trên vồ đá mà rằng: Đây là ông Nguyễn Trung Trực. Người ta nói ông bị Tây giết mà nay ông còn sống đó.

Vậy ông Cả nên lại làm lễ và nói chuyện với Quan Thượng Đẳng. Đức Ông đến nói chuyện và làm lễ hai lạy rồi từ tạ ra đi. Thấy nực, Đức Ông cổi khăn đống áo dài ra.

Đi một đỗi nữa, Ngài lại bảo Đức Ông mặc lại đồ lớn và chỉ một người ngồi trên vồ đá và nói: Đây là ông Trần Văn Thành tục gọi là ông Quản Thành hay Đức Cố Quản. Ông nên ra mắt người. Đức Ông đến đàm đạo và lễ hai lạy. Đức Cố khuyên Đức Ông về rán tu hành, ngày kia sẽ gặp lại nhau (1).
——–
(1). Theo lời thuật của Ông Truyền, nguyên kiểm soát Ban Trị Sự Thánh địa.


Đức Ông tiếp tục theo Đức Thầy lặn suối trèo non được 4 ngày thì than mỏi mệt đòi về. Ngài khuyên rán đi nhưng Đức Ông đi không nổi. Lúc ấy gặp được một khúc mây, Ngài đưa cho Đức Ông làm gậy, gượng chống chỏi mà đi. Đến một chỗ thấy có đèn nhang đang cháy, Ngài bảo Đức Ông đến làm lễ qui y.

Sáng ngày xuống núi, khi tới triền, Đức Ông ngồi nghỉ mệt, đến lúc đứng dậy ra đi lại quên cây gậy, thành thử Đức Ông định đem khúc mây về rốt cuộc cũng không đem được.

Về đến Tân Châu, Ngài ở lại ngủ nhà Ba Sánh một đêm, còn Đức Ông thì đi về trước. Sáng ngày sau Ngài vào chùa cô năm Hí ở làng Long Phú rồi đi qua làng Phú Thuận thăm chị là cô hai Đê, chữa bịnh cho đứa con của cô nầy mới trở về Hòa Hảo.

Cuộc đăng sơn nầy định đi trong 8 ngày, nhưng mới 6 ngày Đức Ông đòi về thành ra còn thiếu 2 ngày. Do đó mà khi về nhà, bảy ngày sau, Đức Ông phát xưng bàn chân trái, đau nhức trong 2 tháng mới lành. Cứ theo Đức Thầy cho biết: Đi kỳ này là để giải quả căn cho Đức Ông, cũng như các vị Hòa thượng đã mấy mươi năm công phu sám hối. Ông Cả không chịu giải quả kia thì phải chịu sự đau nhức nầy.

Sau khi đi núi về, Đức Ông rất hân hoan mà báo cho anh em đến thăm biết rằng:”Tôi đã gặp vàng thiệt rồi, các ông ôi! các ông hãy tin đi”.

2. Đăng sơn kỳ nhì. – Kỳ nầy Đức Thầy đi với Ông Ngô Ngọc Chơn tục gọi là đạo Năm, vào khoảng tháng 7 năm Kỷ Mão (1939).

Khởi hành đi bộ qua Cái Đầm rồi xuống đò qua Năng Gù, đón xe xuống lộ tẻ Mặc Cần Dưng rồi sang xe đi Xà-Tón (Tri Tôn). Đến chợ Xà -Tón, hai Thầy trò đi về hướng núi Tô, băng qua một cánh rừng rồi dò theo đường mòn mà đi, dọc đường gặp người Miên, Ngài dùng tiếng Miên nói chuyện một hồi rồi mới đi.

Lên núi, lần lượt đến Sân Tiên, Điện Năm Căn, Mũi Hải nơi có một chiếc thuyền chìm thành đá, rồi thẳng lên chót núi đến Điện Kín, nghỉ đó một đêm, sáng hôm sau mới qua núi Cấm.

Khi đến Rầy Đét, đường lên núi, hai Thầy trò vẹt phá chông gai, đến hôm sau mới tới Vồ Bò Hong, nghỉ đây một đêm. Đêm đó Ngài kêu ông Yết Ma đang chữa bịnh, lại kêu bằng con và bảo xuất trình một vật báu của “Người xưa để lại”. Ông Yết Ma đem tờ giấy bạch có bốn chữ Bửu Sơn Kỳ Hương ra trình và lạy Ngài hai lạy để tạ lỗi gặp bực “Trên Trước” mà không biết.

Đến 4 giờ khuya, Thầy trò đi về hướng Tây; bữa sau xuống núi, không tiếp tục lộ trình đi Hà Tiên mà lại quay về Châu Đốc, đến kiếm Bếp Ngoan ở trại lính Mã tà bảo rằng đã đến thời kỳ rồi đừng giúp việc cho ngoại địch nữa, hãy bỏ nghề bùa ngải mà theo Thầy.

Ngài qua Tân Châu, đi xe về Chợ Vàm rồi qua bãi Phú Thuận thăm chị, ngủ đây một đêm để ông Chơn về trước, còn Ngài trưa hôm sau mới về.

3. Đăng sơn kỳ ba. – Kỳ nầy Đức Thầy dẫn theo 5 tín đồ là : Ông Phan Văn Báo tức Hai Báo ở Phú An, Ông Nguyễn Tấn Bực tức Biện Hùm ở Phú An, anh của Đại tá Rớt, Ông Nguyễn Văn Gia tức Ba Gia, Ông Nguyễn Văn Ban tức Sáu Ban và Ông Ngô Ngọc Chơn tức Đạo Năm.

Sáu Thầy trò khởi hành tại Hòa Hảo ngày 21 tháng 8 năm Kỷ Mão, đi viếng núi Két, đến núi nầy trong ngày và nghỉ đêm tại đó. Sáng lại, Thầy trò xuống núi rồi qua núi Cấm, đi Rầy Đét đăng sơn. Thấy ai nấy đều mệt mỏi, Đức Thầy mới khuyên: Rán đi để giải quả.

Trải qua nhiều đoạn đường cây cối um tùm, đoàn lữ hành đến một vùng rộng lớn có tòng bá, nhứt là thiên tuế sum sê, thỉnh thoảng lại có những tảng đá phẳng lỳ, nhiều cây bằng đọt như có ai hớt. Cảnh trí u nhàn, quả là một Kiểng Tiên tại thế. Lần lượt đi đến chùa Phật Lớn, Điện Đá Dựng, nơi đây ông Ba Gia thấy một ông hổ lớn. Nghỉ đó một đêm rồi hôm sau trở xuống chùa Ba Đạo, qua Thất Cao Đài, Điện Rau Tần. Trong khi nghỉ đêm ở đây, Đức Thầy có chữa bịnh cho một người mà thầy phù thủy đang chữa không hết.

Sáng lại, Thầy trò xuống núi, qua núi Tô, lên Điện Kín, lại Sân Tiên nghỉ một đêm. Tại Điện Kín có đường hầm đi qua núi Cấm. Ông Chơn có đốt đèn đi thử một đỗi mới trở lại.

Hôm sau, sáu Thầy trò trở về Châu Đốc, qua Tân Châu rồi về Hòa Hảo. Khi đi chuyến đó về Biện Hùm phát bịnh, đau thập tử nhất sanh. Có người đến trình với Đức Thầy và yêu cầu Ngài cứu chữa. Ngài nói: Ai bảo bẻ cây trái của người ta chi cho bị phạt, về bảo nó nguyện vái tạ lỗi, uống nước cúng thì hết. Quả thật Biện Hùm nhìn nhận có bẻ đem về một túi ớt hiểm mà ông thấy mọc đầy trên núi.

4. Đăng sơn kỳ tư.  Kỳ nầy Đức Thầy dẫn ông Ngô Thành Bá tục gọi Biện Đài ở Hòa Hảo đi núi Tà Lơn.

Khởi hành ngày mồng 6 tháng giêng năm Canh Thìn (1940), hai Thầy trò được chở bằng xe đạp qua Cái Đầm, đi đò sang Năng Gù, đón xe đi Châu Đốc rồi sang xe khác vào Tịnh Biên. Đến đây vào 3 giờ, nghỉ đêm nhà của chị ông Đài. Đêm đó Ngài giảng đạo cho nhiều người nghe.

Sáng hôm sau lên xe đi Cần Giọt, đến nơi độ 3 giờ chiều. Hai Thầy trò đi vào chân núi và ngủ trọ nhà ông lão 70 tuổi, đệ tử của ông Cử Đa. Đêm đó, Ngài có đọc thuộc lòng một đoạn giảng quyển thứ ba cho ông lão nghe và khuyến khích tu hành, hẹn sẽ gặp lại.

Sáng hôm sau từ giã ông lão, hai Thầy trò lên núi. Đi tới chơn núi hồi 8 giờ, qua phía trong máy nước, đường Cam Chại, xuống tắm dưới suối, rồi mỗi người thay một bộ đồ dà. Sau đó theo đường Cam Chại lên núi, vào độ 1 giờ trưa thì tới Trung Tòa hay Long Thoàn, ghé vào một ngôi chùa nhỏ, tặng nhà sư ba quyển giảng rồi từ giã ra đi.

Đến ngã tẻ, Đức Thầy bảo đi qua điện Cô Nhứt, đi tắt qua Bà Ngự sẽ gần hơn một phần ba đường đi điện Minh Châu. Vì đi tắt nên đường dốc ngược gập ghềnh, bước muốn sụt lui, mệt lả người, mồ hôi ra như tắm.

Vào lối 3 giờ chiều mới tới điện Cô Nhứt. Từ đây đường bằng phẳng dễ đi nên 5 giờ chiều thì Thầy trò trở ra lộ lớn bề ngang bốn thước, quẹo qua tay trái độ 500 thước thì tới điện Cao Vân. Đêm đó Thầy trò ngủ trên một tảng đá bằng phẳng.

Sáng ngày mồng 9, Thầy trò đi đến Ruộng Năm Dây độ 10 giờ trưa, có đường đi qua Bà Ngự nơi ông Cử được điểm đạo.

Đến đây hết đường mòn, Thầy trò phải băng qua đèo, lội qua suối, thấy tòng bá chen nhau, cực kỳ xinh đẹp; dò lần đến Châu Thiên là một nơi “Tiểu Bồng Lai Tiên Cảnh”.

Nửa giờ sau lại đến Tứ Giao Điện thì mặt trời vừa chen lặn. Nhẹ bước vào điện, không thấy bóng người, chỉ thấy tương chao, chén đũa ngổn ngang trên bàn.

Đói quá ông Đài xin Thầy lấy cơm khô ra nấu rồi luộc đọt rau mà ăn. Bữa cơm đó, ông Đài cho là ngon nhứt trong đời ông. Điện nầy có 4 tảng đá lớn giao khít nhau thành hình chữ thập nên gọi là Tứ Giao Điện.

Đêm đó Thầy trò dẫn nhau lên nóc điện, lên hương đèn cầu nguyện, rồi xuống điện nằm trên sạp bằng cau rừng, Đức Thầy nói: trên trước dạy Thầy đem mầy lên non một tháng. Từ đây còn lên Lan Thiên Trường Sanh, qua Nhị Hoàng, lên núi Tổ mới trở về.

Nhưng ông Đài thấy lương thực kém khuyết mà đường sá còn xa thì sợ chết đói nên đòi về. Thế là sáng ngày mồng 10, Đức Thầy bảo sửa soạn trở về vì ở nhà có việc lộn xộn (vụ Đạo Tưởng giết người tế cờ ở Tân Châu và bị Pháp tàn sát). Trên đường về, Đức Thầy có ghé điện Quan Ngự sử của cựu trào, khi Pháp thôn tính Việt Nam, vào ẩn tu cho đến đắc đạo.

Ngài bảo ông Đài lên đèn hương đảnh lễ còn Ngài thì dùng tiếng bí mật nói với Quan Ngự sử. Xong xuôi Thầy trò ra đi, Thầy thì cầm một khúc cây dọn đường đi trước, còn trò thì nối gót theo sau, hết lên triền lúc xuống núi, sau đến một cái hang tối om, mùi hôi hám. Đức Thầy hỏi ông Đài: Mầy muốn coi cọp núi không ? Đây, mầy chun vô sẽ gặp. Nói xong, Ngài đẩy ông Đài vô, nhưng ông Đài thụt lại và nói: Úy, Thầy ôi! coi kìa dấu chân ông thầy dẫm đầy hang; vô không được đâu.

Ngài nói: Sao mầy nhát quá vậy. Ngài bảo mãi nhưng ông Đài không dám chun. Rốt cuộc Ngài nói: Không chun vô thì thôi. Ta hãy đi.

Nói rồi, hai Thầy trò ra đi, đến 10 giờ trổ ra một cái suối lớn có chổ rộng 100 thước tây. Đến 3 giờ, Đức Thầy dẫn đi dốc ngược lên núi vào ngay một cái điện. Ngài nói tiếng trên và bảo ông Đài lên hương đảnh lễ.

Trong lúc đi đường, có khi Ngài lớn tiếng kêu chư Thần: Hỡi các vị Thánh Thần! hãy theo Thầy xuống núi cứu thế độ dân. Hôm nay Thầy đã lâm phàm rồi, sao các ông còn ở đây.

Sáng ngày 11, Thầy trò đi đến một con suối, nước đổ ồ ồ, cùng nhau xuống tắm rồi mới đi. Ngài bỏ ông Đài ở sau đến cả công đất. Ngài phải dừng chơn đứng đợi, khi ông Đài đến thì hoảng hốt vì thấy một con cọp đang uống nước gần đó.

Đi đến 10 giờ trưa, ông Đài đi hết nổi, tối tăm mày mặt, ôm vào một gốc cây. Ngài trở lại vuốt ngực, đọc chú và cho ông Đài nhai một nắm lá có chất ngọt. Vài phút sau thì ông Đài khỏe lại.

Từ đó trở đi, đường sá hiểm trở, có chỗ phải bò, khi vượt lên, lúc lại tuột xuống. Ngài dẫn ông Đài lên một ngọn núi cao vót ít có cây mọc. Trên núi có suối chảy, nước trong như mắt mèo. Có lúc Ngài lội ngang suối, còn ông Đài thì vịn theo thân cây ngã ngang mà bò qua. Ngài rầy sao không lội nước thì ông Đài đáp: Lội chi cho ướt mình.

Ngài nói: Thầy đi đàng nào, trò phải đi đàng nấy. Từ đây cấm mầy không đi như vậy nữa.

Đi một đổi, Ngài ngồi lại, ôm đầu gối mà than: Phen nầy chắc chết. Trên trước dẫn Thầy đến đây rồi bỏ đi đâu mất. Hôm nay Thầy có chết cũng an thân vì Thầy không có gia đình, sự sản, vợ con; chỉ thảm thương mầy có con vợ, sự sản mà hôm nay nghe lời Khùng Điên đến đây tuyệt mạng, đau khổ biết chừng nào!

Ông Đài nghe nói phát sợ, nhưng cũng cố gắng đáp: trên trước còn trong mình Thầy, chớ có đi đâu.

– Sao mầy biết?

– Vì Thầy nói tiếng âm đằng điện.

– Tại miệng Thầy muốn nói.

– Tại sao miệng tôi nói không được. Thầy nghĩ coi, núi nầy tuy lớn, nhưng xét lại cơm khô ăn còn được ba bốn ngày.

Xin Thầy đi theo ngọn núi này, có lẽ một tuần nữa cũng trổ ra. Nếu hết lương thực thì ăn đỡ lá cây, đỡ đói cũng được.

Đức Thầy trợn mắt hỏi: Mầy chết sao dám nói vậy. Chẳng qua Thầy thử lòng mầy, chớ sự nghiệp mầy chừng đôi ba ngàn, gia quyến mầy chừng bảy chục người, chớ bao nhiêu. Còn Thầy đây nếu mai một đi rồi thì muôn triệu tín đồ trong buổi Hạ nguơn nầy lấy ai dắt dẫn.

Thầy trò lại lên đường. Ông Đài vấp chơn đổ máu, nhức đi không được. Ngài liền dùng phép mầu chữa cho hết đau. Ngài lại nói: Thầy trò mình đi mấy ngày đã đuối chơn, để Thầy kêu hai con cọp đặng Thầy trò mình cỡi đi cho khỏe.

Ông Đài từ chối không dám.
Ngài hỏi: Mầy muốn cỡi tượng không? Ông Đài cũng không dám.

Tối đêm đó, Thầy trò ngủ dựa mé suối. Khuya lại nghe tiếng rắc rắc, ông Đài mở mắt thấy bạch hổ thì sợ quá. Đức Thầy nói: Đó là Thần Bạch Hổ đến ủng hộ chúng ta.

Sáng ngày 12, đường đi vẫn còn khó nhọc. Ông Đài thấy nhánh cây mới chặt xéo, lá còn tươi xanh, lượm lên hỏi Thầy thì Ngài cho biết: Đó là dấu hiệu trên trước dẫn đường. Thầy trò phải băng qua một truông mây mới trổ ra lộ đá, đi về Cần Giọt đúng 6 giờ chiều. Về đây mới rõ vụ Đạo Tưởng nổi dậy ở Tân Châu.

Ngày 13, lối 3 giờ chiều, xe về đến Nhà Bàn. Hương giáo Tập đến mời Thầy về nhà dùng cơm. Đêm đó có người hỏi Thầy về những vật Phật Thầy Tây An trao cho ông Đình Tây đều được Ngài trả lời rành mạch.

Có ông lại bạch Ngài rằng: Bạch Thầy, mấy ông Đạo trên núi thường luyện phép để ngày sau phò vua giúp nước? Còn Đức Thầy sao không dạy đệ tử luyện phép như Tiên đạo?

Ngài đáp: Đạo Phật chỉ dạy con người lo tu tâm sửa tánh cho được trọn lành trọn sáng, còn phù phép thuộc về tà giáo. Còn ham phù phép tức là nuôi óc cạnh tranh cầu danh lợi; phép linh cũng như cá linh: nước vừa chớm giựt, loại cá nầy đua nhau lên nước trước nên phải chịu chết sớm. Các ông đừng ham linh mà bỏ mình.

Sáng hôm sau, ngày 14 Đức Thầy dẫn ông Đài đi núi Trà Sư, khi lên đến chót, Ngài chỉ con đường Nhà Bàn xuống Xà Tón và cho biết đến thời kỳ hỗn loạn thì con đường nầy phơi thây chật đất, máu chảy đầy đồng.

Trưa lại Thầy trò về nghỉ và lối 4 giờ chiều, Ngài dẫn ông Đài và sáu bảy anh em tín đồ đi núi Két; lên đến Sân Tiên, Ngài ngâm cho Hương giáo Tập chép bốn bài thi sau đây:

Non Tiên gió mát toại lòng thay!
Tức cảnh thi văn nhả một bài.
Cố tưởng ước mong về nhược thủy,
Ngặt vì không cánh lấy gì bay.
o0o
Dắt xác phàm phu viếng non đoài,
Hỏi nhờ đá cục ngủ đêm nay.
Chư sơn Bảy núi đồng qui tựu,
Thầy Tớ Kiểng Tiên rõ mặt mày.
o0o
Nhìn xem cây cỏ gió lung lay,
Sáng lại lui chơn trở gót hài.
Vậy hỡi chư Thần mau nối gót,

Theo Thầy dắt chúng khỏi nồng cay.(1)
_________________________________________________________
(1). Theo quyển: Dõi gót theo Thầy của Ngô thành Bá tự Đài.

VIẾNG THĂM CÁC LÀNG KẾ CẬN.  Sau khi dùng huyền diệu của Tiên gia chữa bịnh và đem giáo pháp nhiệm mầu của Đức Thích Ca phổ truyền bằng thi bài hay Sấm Giảng, Đức Huỳnh Giáo Chủ đã thu nhận một số đông tín đồ. Vì cảm lấy ân đức cứu tử huờn sanh, vì nhận chân Ngài qua thi văn Sấm Giảng, thiên hạ từ vùng gần đến làng xa, đổ xô nhau xin thọ giáo qui y.

Một khi đặt vững đức tin vào lòng người và nhơn chút rỗi rảnh, Đức Thầy mới đi viếng các vùng lân cận, trước đến thăm viếng tín đồ, sau để đón nhận những người chưa có dịp ra mắt Ngài, mặc dầu đã nghe danh nhưng chưa được diện kiến.

Hồi xưa Đức Phật Thích Ca sở dĩ thường đi vân du nơi nầy chốn nọ, cốt ý là để biện giải những lý lẽ nhiệm mầu hầu phá tan tà thuyết dị đoan ngoại đạo. Do đó mà Ngài thu phục nhiều tín đồ trong hàng ngoại đạo quay về với chánh pháp, như trường hợp của Thập lực Ca Diếp. Hơn nữa dung nghi đẹp đẽ của Ngài, nếu không đi đó đi đây thì những người có duyên lành không có dịp chiêm ngưỡng, cảm mộ dung nhan, sanh lòng hoan hỷ rồi qui ngưỡng, theo như trường hợp của A-Nan tôn giả. Ngoài ra, thân Phật có phát ra hào quang, người nào may mắn xuông lấy hay tiếp nhận ánh sáng từ quang ấy thì thân tâm trở nên thanh tịnh, kích phát tâm Bồ đề, hướng về chánh pháp, cầu đạo vô sanh.

Ngày nay, Đức Huỳnh Giáo Chủ vân du, tuy không như Đức Phật, nhưng đây là một dịp để gần gũi hầu chỉ dạy mọi điều đạo đức, những lẽ nhiệm ý mầu cho những người có duyên lành sớm qui đầu Phật pháp. Cũng có trường hợp, Ngài gợi lại mối duyên xưa mà Ngài đã gieo trong những kiếp trước như trường hợp Ngài đến viếng làng Mỹ Hội Đông.

I.  Viếng làng Mỹ Hội Đông.  Làng Mỹ Hội Đông nằm trên Cù lao ông Chưởng, giáp mặt với sông Hậu và Nam ngạn Vàm Nao, đối diện với làng Hòa Hảo và cù lao Bình Thủy.

Ngài sang viếng ngày 22 tháng giêng năm Canh Thìn (1940). Trong kỳ viếng nầy, có hai việc đáng ghi nhận:

1. Ông Lương văn Tốt tức Thầy Tám Tốt, một vị lương y ở Mỹ Hội Đông, khi nghe  Ngài đến thì ra lộ đón chào. Ông đã nghe tiếng Ngài, đã có đến ra mắt ở Hòa Hảo, nhưng còn muốn thử Ngài một lần nữa, nên khi Ngài đi ngang thì ông ra đón hỏi:

– Hôm nay, Ông Tư cũng đi du lịch nữa sao?
Ngài cải chánh tại chỗ.
– Không ! Tôi đi ngao du mà!
Từ danh từ “du lịch”, Ngài sửa lại danh từ “ngao du” đủ chứng tỏ Ngài là bực siêu phàm.

Nghe Đức Thầy cải chính như vậy, ông Tám Tốt hốt hoảng, chào Ngài một cách kính cẩn và sau đó nói cho mọi người biết, Ngài dùng hai tiếng “ngao du” đủ chứng minh Ngài không phải là người phàm nhơn. Chỉ có bực Tiên Thánh mới dùng hai tiếng “ngao du”, thay vì “du lịch” của hàng phàm tục.

2. Ở Mỹ Hội Đông có gánh họ Lâm, trong thời kỳ Cần Vương chống Pháp đã có công cho ông Nguyễn Trung Trực tá túc, sau khi bị Pháp phá vỡ cơ sở kháng chiến ở miền Đông và Đồng Tháp, di binh về miền Tây, đến tá ngụ nhà ông Lâm Hàm Ninh ở xã Mỹ Hội Đông một thời gian. Binh tướng của Ngài thì đóng ở Tà Niên tỉnh Kiên Giang, còn riêng Ngài thì tá túc ở gánh họ Lâm, để tránh sự dòm ngó, theo dõi của Pháp và đám Việt gian tay sai. Trong lúc tá túc, Ngài thường liên lạc với Đức Cố Quản ở Bình Thạnh Đông và đặt một số người liên lạc hay vận lương cho binh sĩ đồn trú ở Tà Niên.

Một điều huyền bí là chừng như có sự giao cảm tự nhiên giữa gánh họ Lâm và Đức Huỳnh Giáo Chủ nên chi khi hay tin Ngài ra đời ở Hòa Hảo thì người trong gánh họ Lâm hầu hết đều đến qui ngưỡng.

Chiều ngày 20 tháng 11 năm Kỷ Mão (1939) ông Cả Mười trong gánh Họ Lâm có đến ra mắt Ngài và được Ngài cho hai bài thơ chữ Hán như sau:

Thiên lý vị nhiên tự sĩ hiền,
Ngôn xuất Lam Kiều dị khả biên.
Tam tấn tài phi ngô tất ảo,
Lưỡng hồn nhứt phổ họa lưỡng xuyên.
o0o
Thân thiện cô nhi nhược thủy hà,
Phi hùng Nhan Khước tỵ ngôn xoa.
Phổ yến tử tôn canh kiêm mộng,
Thể thống tam đồ lạc âu ca.

Sau khi đem về nhà, ông Cả Mười mặc dầu là một nhà Nho đã cùng nhiều nhà nho khác trong làng Mỹ Hội Đông bàn mãi mà không ra nghĩa. Cho nên hôm ngày 22 tháng giêng năm Canh Thìn (1940) nhân dịp Đức Thầy viếng làng Mỹ Hội, có ghé nhà ông Cả Mười. Ông bèn xin Ngài dịch ra chữ nôm hay quốc ngữ thì được Ngài dịch ra tiếng Việt như sau:

Trời đất chưa phân gọi sĩ hiền,
Lầu Tiên lời lẽ lạ gần biên.
Ba lần tranh đoạt, Ta ắt biến,
Gặp kẻ hai hồn độ hai xuyên.
o0o
Mình lành có kẻ độ qua sông,
Như có Thầy Nhan ẩn mặt hồng.
Tích trước Tiên thân thường đãi khách,
Ba đời an lạc hưởng hầu công.

Và trong bài thơ trường thiên “Viếng làng Mỹ Hội Đông” Ngài tặng anh em tín đồ có câu:

Duyên lành rõ được Khùng Điên,
Chẳng qua kiếp trước thiện duyên hữu phần.

II. Viếng làng Phú An.  Sau khi viếng làng Mỹ Hội Đông, Ngài đi viếng làng Phú An, một xã giáp ranh với xã Hòa Hảo, ở về phía Bắc.

Ngày 23 tháng giêng năm Canh Thìn, tức sau một hôm viếng Mỹ Hội Đông. Ngài hiệp với ông Năm Hiệu và Biện Hùm đi xe đạp lên Chợ Vàm. Trong chuyến đi nầy có hai việc đáng ghi nhận:

1. Trên đường đi Chợ Vàm, Ngài có cứu sống cô năm Mang mắc bịnh thời khí rất nặng, hết phương cứu chữa.

Thấy đông người tới lui, Ngài ghé hỏi, người nhà cho biết tự sự và yêu cầu Ngài cứu độ. Ngài nhận lời, bèn dùng nước lã bảo cho bịnh nhơn uống và đồng thời dạy đặt bàn hương án giữa trời.

Khi đặt xong, hỏi Ngài cho biết phải vái làm sao?

Ngài nói: Thì để cúng vái người ta.

 Danh từ “người ta” quá tổng quát, nên có người hỏi lại cho rõ nghĩa hơn. Ngài không trả lời, đi thẳng lên bàn hương án, nói trổng:

– Thôi! có hưởng rồi thì đi đi. Đừng có phá người ta.

Thế là hết bịnh, cô năm Mang được cứu khỏi.

Đoàn lữ hành tiếp tục đi thẳng lên Chợ Vàm và ghé nhà Hương Hào Phỉ là một gia đình đã qui ngưỡng theo Ngài từ khi Ngài mới ra đời mở đạo.

2. Khi vào nhà Hương Hào Phỉ, Ngài đi thẳng lên lầu. Nên biết lúc bấy giờ, còn dưới thời Pháp thống trị, mọi hành vi của Ngài đều bị lính kín theo dõi. Ngài lên lầu là cốt để tránh cặp mắt dòm ngó của công an và tránh cho những người đến tiếp xúc không bị làm khó dễ.

Ngài ngũ đêm nhà ông Phỉ. Đêm đó, Ngài thuyết pháp để thức tỉnh anh em tín đồ hiểu rõ sứ mạng của Ngài trong cơ hoại diệt của buổi Hạ nguơn mà quyết chí tu hành vẹn tròn đạo nghĩa hầu có:

Trả cho rồi nợ tiền khiên,
Đến ngày hiệp mặt Kiểng Tiên vui vầy.

Ngoài số tín đồ, Ngài còn tiếp một số nhà giáo do Ông Diệp Hồng Tỏ giới thiệu và nhứt là Thầy Ba Thận, một lão nho đã có lần đem thơ định thử Ngài nhưng chưa kịp đem ra thì Ngài đã đáp trước.

        Đêm nay, cảm tình ông đến thăm, Ngài có cho hai bài thơ khích lệ như sau:

Đêm vắng mà sao cảm quá dài,
Văn nhu lão trưởng tiếng bi ai.
Tầm nơi yếu lý câu huyền diệu,
Thương thảm cho đời thưởng huệ mai.
o0o
Đoái tưởng lòng ông quá đỗi hiền,
Dặm trường tới viếng mượn ngòi nghiên.
Tỏ tình yêu quí người lương thiện,
Trông đợi ngày kia khỏi xích xiềng.

 


Chương V: Sứ mạng [trở lại đầu trang]

Nhận thấy Đức Huỳnh Giáo Chủ ra đời trị bịnh một cách mầu nhiệm, thuyết pháp, cho bài thi cùng viết Sấm Giảng một cách phi phàm, người đời càng tọc mạch tìm hiểu xuất xứ của Ngài. Có người đường đột làm thơ hỏi Ngài là ai? Như trong phần thi họa, ông Huỳnh Hiệp Hòa ở Bình Thủy làm thơ hỏi Ngài có phải là Trạng Trình, Cử Đa, Đề Thám không thì Ngài đáp lại một cách khéo léo trong đó cho biết Ngài là ai, nhưng phải tinh ý lắm mới thấy được, vì bài thơ ấy làm bằng Hán văn.

Đến như ông Lương Văn Tốt ở Mỹ Hội Đông thì đường đột hơn, hỏi tách bạch bằng thơ Việt, danh hiệu của Ngài, như mấy vần sau đây:

Mộ đạo ơn trên chưa hiệu danh,
Xin ông phân cạn chúng nghe rành.

Thì Ngài đáp lại ngay:

Vưng lịnh Phật tôn chưa hiệu danh,
Ngặt vì pháp luật khó phân rành.

Cứ theo đó thì sự giáng phàm của Ngài, hẳn có sứ mạng, sắc lịnh nhưng vì hoàn cảnh không thuận tiện nên chưa có thể bộc lộ đó thôi.

Thật ra, theo Ông Thanh Sĩ, các đấng siêu phàm một khi xuống trần, nếu thật là bực chơn chánh, có mạng lịnh thì luôn luôn khiêm tốn và kín đáo, không hề xưng danh hiệu. Bởi theo Ông Thanh Sĩ, hễ xưng thì thế nào cũng xọp, nhứt là hạng không chơn chánh, không có sứ mạng thì ưa xưng danh hiệu, xưng một cách lớn lối, lố bịch.

Phàm ở đời, những thứ thiệt thì ít khi bày khoe; chỉ có thứ giả mới sợ người đời không biết nên hay giả danh, lòe loẹt. Thứ thiệt dầu không bày khoe, trước sau gì, vàng y vẫn là vàng y, còn thứ xi thứ giả thì trước sau gì cũng phai màu, tróc lớp sơn phết.

Dầu không xưng hô, nhưng nếu ta tinh ý, theo dõi hành vi ngôn ngữ của họ mà ta nhận là chơn thuần mỹ thì đó là phần chơn chánh: hay đọc kỹ những gì các đấng ấy viết ra, ta cũng tìm được xuất xứ cùng cấp bực của vị siêu phàm ấy không khó.

Ai biết chữ Hán, khi đọc hai câu sau đây của Đức Huỳnh Giáo Chủ đáp ông Nguyễn Kỳ Trân tức Chín Diệm ở Định Yên:

Trình mỗ ngộ kim giai Cổ địa,
Xích mi hải hội luật trừng thiên.

Hay hai câu của Ngài đáp ông Huỳnh Hiệp Hòa ở Bình Thủy sau đây:

Tam bá ngoại niên chơn bút hiệu,
Hàn lâm nhứt đấu vịnh thiên chương.

Thì chúng ta biết rõ Ngài là ai rồi. Dầu vậy cũng chưa rõ bằng khi chúng ta đọc Sấm Giảng hay thi văn của Ngài, có nhiều đoạn Ngài không giấu giếm.

Xuất xứ. – Ngài không ngần ngại cho biết xuất xứ của Ngài ở cõi nào xuống, ý chừng Ngài muốn tăng trưởng đức tin, hay đánh tan sự nghi ngờ của người đời còn do dự chưa cả quyết đặt trọng lòng tin tưởng vào sự giáo độ của Ngài hầu sớm tu hành để khỏi bị đọa sa trong thời kỳ hoại diệt.

Có lẽ vì thế mà Ngài cho biết Ngài có ngôi vị bên Tây phương Cực lạc:

Bồng Lai, Điên lại có ngôi.
Tây phương Cực Lạc, Khùng ngồi tòa sen.

Vì thương xót vạn dân đến hồi tai ách nên đành lìa bỏ cảnh thơm tho của mùi sen báu xuống trần cứu thế độ dân:

Cảnh Thiên Trước thơm tho nồng nặc,
Chẳng ở yên còn xuống phàm trần.
Ấy vì thương trăm họ vạn dân,
Nên chẳng kể tấm thân lao khổ.

Trong bài họa lại bài ông Tùng ở Cái Đầm, Ngài cũng xác nhận là ở Tây Phương, vì yêu dân chúng mà xuống trần:

Cũng biết càn khôn vẫn một bầu,
Tây phương yêu chúng chẳng ngồi lâu.

Ngài không nở yên vui nơi cõi Cực Lạc khi mà thế gian còn lầm than lao khổ:

Nếu thế gian còn chốn mê tân,
Thì ta chẳng yên vui Cực Lạc.

Nhứt là được lịnh của Thiên hoàng nên phải lìa chín phẩm ngọc tòa, lâm phàm giả dạng Khùng Điên truyền đạo lý, như một đoạn sau đây trong bài ” Để chơn đất Bắc”:

Liên hoa chín phẩm ở Ngọc Tòa,
Được lịnh Thiên hoàng nấy sai Ta,
Hạ giới dạy khuyên truyền đạo lý,
Giả dạng Điên Khùng mượn thi ca.

Lãnh sắc lịnh. Phương chi Ngài giáng trần kỳ nầy lo do nhiều sắc lịnh.
Ngài chịu lịnh của Phật A Di Đà:

Muốn tu tỉnh nay đà gặp cuộc,
Đức Di Đà truyền mở đạo lành;
Bởi vì Ngài thương xót chúng sanh,
Ra sắc lịnh bảo Ta truyền dạy.

Và truyền dạy ở miền Nam Việt Nam:

Khùng vưng lịnh Tây phương Phật Tổ,
Nên giáo truyền khắp cả Nam Kỳ.

Hay là:

Hạ nguơn sanh chúng ám u,
Tây phương sắc lịnh vân du Nam Kỳ.

Và chịu mạng lịnh của Phật A Đi Đà nên giáo pháp của Ngài truyền dạy, chuyên chú vào pháp môn Tịnh độ:

Môn Tịnh Độ là phương cứu cánh,
Rán phụng hành kẻo phụ Phật xưa.

Do đó, sứ mạng của Ngài đều qui vào việc dắt dìu sanh chúng về cõi Tây phương Cực Lạc:

Chí toan gieo giống Bồ Đề,
Kiếm người lương thiện dắt về Tây phương.

Ngoài sắc lịnh của Phật A Di Đà, Ngài còn lãnh Sắc chỉ của Đức Phật Thích Ca, như Ngài thổ lộ:

Ta vì vưng sắc lịnh ngọc tòa.
Đền Linh Khứu sơn trung chịu mạng.

Và giáo pháp mà Ngài lãnh phổ truyền không riêng ở Nam Kỳ mà khắp thế giới:

Ta thừa vưng sắc lịnh Thế Tôn,
Khắp hạ giái truyền khai đạo pháp.

Ngài tự nhận là đệ tử của Phật Thích Ca:”Tôi vẫn không quên rằng tôi là một đệ tử trung thành của Đức Phật Thích Ca“, và thổ lộ:

Ta là kẻ vô hình hữu ảnh,
Ẩn xác phàm gìn đạo Thích Ca.

Mối đạo mà Ngài lãnh sứ mạng giáo truyền là một nền đạo vô vi, khác lối âm thinh sắc tướng của Thần Tú. Thế nên với mục đích hưng truyền hay xương minh đạo Phật, Ngài không ngớt kêu gọi và khuyên dứt:

Khuyên sư vãi mau mau cải hối,
Làm vô vi chánh đạo mới mầu;
Đạo Thích Ca nhiều nẻo cao sâu,
Hãy tìm kiếm cái không mới có.

Vì vậy mà Ngài chủ trương: Theo Lục Tổ chớ theo Thần Tú.
Và Ngài xuống trần đây là nối theo chí của Phật Thích Ca:

Ta thương đời len lỏi xuống trần,
Đạo vô vi của Phật ân cần,
Nối theo chí Thích Ca ngày trước.

Đồng thời với sắc lịnh của Phật Thích Ca, Ngài còn lãnh Chiếu của Ngọc Hoàng Thượng Đế, như Ngài đã viết:

Cúi đầu tâu lại cửu trùng,
Ngọc Hoàng ban chiếu lão Khùng giáo dân.

Hay là:

Lời văn tao nhã hữu tình,
Bởi vưng sắc lịnh Thiên đình sai Ta.

Vừa lãnh chiếu của Ngọc Đế, vừa vưng sắc lịnh của Phật Tổ:

Thừa vưng sắc lịnh của Trời,
Cùng ông Phật Tổ giáo đời khuyên dân.

Ngoài lịnh của Ngọc Hoàng Thượng Đế, Ngài còn chịu lịnh của Phật Vương:

Điên nầy vưng lịnh Phật Vương,
Với lịnh Phật đường đi xuống giảng dân.

Ngài nói rõ lịnh Phật Vương qui định cho Ngài những việc gì, như đoạn văn Ngài viết sau đây:
“Phật Vương đã chỉ rõ máy diệu huyền chuyển lập Hội Long Hoa, chọn những đấng tu hành cao công quả để ban cho xứng vị xứng ngôi, người đủ thiện căn để giáo truyền Đại Đạo, định ngôi phân thứ gây cuộc Hòa Bình cho vạn quốc chư bang”.

Ngài cũng còn chịu lịnh của Đức Quan Âm như Ngài đã viết:

Quan Âm Nam Hải Phổ Đà,
Cùng Thầy ra lịnh nên Ta giáo truyền.

Hay là:

Lịnh Quan Âm dạy biểu Khùng troàn (truyền),
Cho bổn đạo rõ nguồn chơn lý.

Thiên chức của Đức Quan Âm là tầm thanh cứu khổ, nhứt là trong giai đoạn khổ ách nầy, chúng sanh càng phải nhờ đến phép huệ linh của Ngài cứu an bá tánh.

Nói tóm lại, Đức Huỳnh Giáo Chủ xuống trần kỳ nầy chịu tất cả mạng lịnh của 5 vị: Đức Phật A Di Đà để phổ truyền pháp môn Tịnh độ, Phật Thích Ca để hưng truyền Chánh pháp Vô vi; Ngọc Hoàng Thượng Đế để lập bảng Phong Thần; Đức Phật Vương để lập Hội Long Hoa chọn người hiền đức đưa qua cõi Thượng nguơn an lạc và Quan Âm Nam Hải để cứu độ chúng sanh trong thời kỳ đầy khổ ách của buổi Hạ nguơn sắp chấm dứt.

Nhiệm vụ. Với những sắc lịnh cùng chiếu chỉ truyền dạy lâm phàm, Ngài phải hoàn thành một trọng trách hết sức to tát có thể tóm lược một số trong mấy nhiệm vụ trọng yếu như sau:

1. Chấn hưng Phật pháp: Từ ngày chư Tổ bặt truyền y bát đến nay, chơn pháp của Phật bị người đời làm sai tinh nghĩa nên thành ra một ngày một suy đồi. Vì vậy, Ngài lâm phàm lần nầy là để hoàn thành sứ mạng chấn hưng Phật pháp như Ngài đã viết:

Phận tớ xác phàm tớ sẽ vưng,
Cúng dường cho Phật, Phật đành ưng.
Dù cho phải chịu ngàn cay đắng,
Cũng nguyện đạo mầu sẽ chấn hưng.

Hay là:

Lòng thương lê thứ đáo Ta bà,
Thừa chuyển pháp luân dụng khuyến ca.

2. Cứu độ chúng sanh khỏi sông mê bể khổ – Sứ mạng chánh yếu của Ngài là cứu độ chúng sanh bằng nhiều phương tiện, như Ngài đã viết:

Thấy biển khổ đâu an lòng đặng,
Xông thuyền ra cứu vớt chúng sanh.

Hay là:

Ta quyết lòng rứt nợ oan khiên,
Cứu bá tánh khỏi nơi lao khổ.

Hoặc là:

Chờ con đầy đủ nghĩa nhân,
Ra tay tế độ dắt lần về ngôi.

3. Chỉ đường về Tây phương Cực Lạc. Với phương tiện thứ nhứt của sự cứu độ là bằng pháp môn Tịnh độ mà Ngài đã thọ lãnh của Phật A Di Đà, Ngài quyết chỉ đường cho chúng sanh về Tây phương Cực Lạc, hưởng quả bất sanh bất diệt như Ngài đã bày tỏ:

Tìm Cực Lạc, Đây rành đường ngõ,
Hãy mau mau tu tỉnh mới mầu.
Tận thế gian còn bao lâu,
Mà chẳng chịu làm tròn nhơn đạo.

Hay là:

Nghe Điên dạy sau nầy thơi thảnh,
Đây chỉ đường Cực Lạc Vãng sanh.

Hoặc là:

Chí toan gieo giống Bồ đề,
Kiếm người lương thiện dắt về Tây Phương.

4. Tìm con lành hay tạo hiền đức để dự Hội thi sang qua đời Thượng nguơn an lạc, đó là phương tiện thứ hai của sự cứu độ, như Ngài nhắc nhở:

Khoa tràng lịnh mở hội thi,
Nên ta xuống bút dạy thì trần gian.
Chớ mình hồn dựa lâm san,
Thảnh thơi còn xuống thế gian làm gì?
Ước mơ thượng cổ hồi qui,
Thế trần no ấm phú thi an nhàn.

Hay là:

Khuyên trong lê thứ trẻ già,
Tu hành hiền đức Phật mà cứu cho.

Hoặc là:

Kẻ hiền đức sau nầy được hưởng,
Phép thần linh của Đức Di Đà.

Hay tìm con lành:

Khai ngọn đuốc từ bi chí thiện,
Tìm con lành dắt lại Phật đường.

5. Lập Hội Long Hoa. Phương tiện thứ ba của sự cứu độ là Ngài lãnh lịnh của Đức Ngọc Đế lập bảng Phong Thần hầu phong tước cho những người có lòng trung nghĩa, như Ngài đã thổ lộ:

Thân bần tăng mặc bộ sòng nâu,
Cuộc thiên lý một bầu đã hản.
Đến kỳ thi danh Thầy chạm bảng,
Trên đài cao gọi các linh hồn.

6. Ông Thanh sĩ cũng nhận Đức Thầy có sứ mạng lập bảng Phong Thần:

Khuyên đừng có lắm phân vân,
Không Thầy cái Hội Phong Thần ai phong.

7. Đưa người đến Bồng Lai Tiên Cảnh. Phương tiện thứ năm của sự cứu độ là đưa người đến Bồng Lai Tiên cảnh hay cõi Thượng nguơn an lạc, như Ngài đã xác nhận:

Trả nợ thế nghĩa ân trọn vẹn,
Cảnh non Bồng kỳ hẹn ngày kia.

Hay là:

Ước mong dân khỏi nạn tai,
Dắt dìu Tiên cảnh Bồng Lai nhiều người.

Hoặc là:

Khuyên dạy dân tinh minh đạo đức,
Tu hành được thấy cảnh Bồng Lai.

Và ngày nào đó: chèo thuyền đến Bồng Lai thì ngày ấy Ngài mới thảnh thơi, hoàn thành sứ mạng:

Quyết chèo thuyền đến chốn Bồng Lai,
Mới ngơi nghỉ tấm thân của Lão.

8. Trừ con nghiệt thú. Ngoài sứ mạng cứu độ ngườii hiền, Ngài còn lãnh nhiệm vụ trừ con nghiệt súc trong ngày âm dương biến động như Ngài cho biết trước:

Con sông nước chảy vòng cầu,
Ngày sau có việc thảm sầu thiết tha.
Chừng ấy nổi dậy phong ba,
Có con nghiệt thú nuốt mà người hung.
Đến chừng ấy thú phục tùng,
Bá gia mới biết người Khùng là ai?

Và Ngài cũng lãnh sứ mạng thâu con long ác ngiệt:

Thâu cho được con long ác nghiệt.
Thì khắp nơi mới biết mến yêu.

9. Cầm cân thưởng phạt. Ngoài sứ mạng cứu độ chúng sanh, và trừ loài ác nghiệt, Ngài còn lãnh sứ mạng đại diện công lý cầm cân thưởng phạt kẻ lành dữ theo luật nhân quả báo ứng, như Ngài đã báo tin:

Lão đây vưng lịnh Phật tôn,
Lãnh câu thưởng phạt chư môn dữ lành.

Hay là:

Có ngày mở rộng qui khôi,
Non Thần vang chuyển Khùng ngồi xử phân.

10. Tá quốc an bang. Ngoài ra Ngài còn sứ mạng tá quốc an bang, xây dựng sơn hà, tạo nền hạnh phúc cho nhơn sanh trong ngày Thượng Nguơn hồi phục, như Ngài đã tiết lộ:

Một tay tá quốc an bang,
Nước nhà vững đặt Hớn đàng hiển vang.

Trên đây là mười trách nhiệm trọng yếu mà Ngài phải đảm phụ và thực hiện trong kỳ chuyển kiếp lần nầy. Một khi hoàn thành sứ mạng, Ngài mới trở về ngôi vị cũ.

Nói tóm lại, sứ mạng của Ngài có thể đúc kết làm mấy điểm như sau:

1. Chấn hưng hay xương minh chánh pháp
2. Cứu độ chúng sanh bằng cách:

– Chỉ đường về Tây phương Cực Lạc bằng Pháp môn Tịnh Độ.
– Đào tạo hạng người hiền đức hầu có đủ điều kiện dự Hội Long Hoa, sống còn đời Thượng nguơn an lạc.
– Cứu rỗi các phần hồn đưa vào bảng Phong Thần,
– Đưa người đến Bồng Lai Tiên Cảnh hay cõi đời Thượng nguơn bằng con đường tu Tứ Ân hay Tu Nhân đề làm tròn nhân đạo.

3. Trừ ác thú.
4. Cầm cân thưởng phạt kẻ lành dữ trong ngày lập Hội hay ngày phán xét cuối cùng.
5. Tá quốc an bang trong ngày Thượng nguơn xây dựng.

Chí nguyện. Để hoàn thành sứ mạng cao cả của chư Phật giao phó, Ngài đã thệ nguyện, như các Đại Bồ Tát hay Phật xưa đã thệ nguyện trước khi thực hành một sứ mạng cao cả.

Như Đức Phật A Di Đà đã phát 48 lời nguyện để thành lập cõi Cực Lạc làm nơi an trụ cho những ai muốn vãng sanh về cõi của Ngài hầu đắt quả vô sanh hay bất thối.

Đến trường hợp của Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng thế, Ngài lập thệ rất lớn làm nơi y cứ hầu có vững bước trên con đường hoàn thành sứ mạng dầu phải chịu gian nan nguy khốn:

Cảnh thiên trước thơm tho nồng nặc,
Chẳng ở yên còn xuống phàm trần.
Ấy vì thương trăm họ vạn dân,
Nên chẳng kể tấm thân lao khổ.

Chỉ một chí hướng quyết độ đời mà thôi:

Dầu cho xoay chuyển đất trời,
Lòng ta chí dốc độ đời mà thôi.

Dầu phải chịu đắng cay, chẳng quản thân danh khổ lụy:

Thương đời phải chịu đắng cay,
Thân danh chẳng quản chông gai chi sờn.

Dầu phải làm thân lươn lấm lem bùn trịnh:

Tớ với Thầy nào quản thân lươn,
Muốn cứu thế sá chi bùn trịnh.

Dầu đời bạc đãi cũng quyết nêu cao ngọn đèn chân lý soi đường minh thiện cho bá tánh hết tối tăm:

Quản chi lực kém tài hèn,
Dù đời bạc đãi ngọn đèn cứ nêu.

Chí nguyện của Ngài là độ tận chúng sanh:

Một lòng nguyện độ tận chúng sanh.
Mặc tình trước sự ghét ưa của sanh chúng.
Quyết lòng độ tận trong sanh chúng,
Ai ghét ai ưa cũng mặc tình.

Hay là:

Có sông có núi cùng cây cỏ,
Độ tận chúng sanh khỏi dại khờ.

Ngài sẵn sàng gánh chịu mọi tai nàn thế giới, sau bớt nỗi khổ đau với những người có tâm lành quyết lòng tu tỉnh:

Nhìn dân châu lụy ủ ê,
Biết bao trút hết gánh về Ta mang.
Mang cho hết tai nàn thế giới,
Kẻ tâm lành bớt đợi chờ trông.

Hoặc là:

Nghiêng hai vai gánh nặng non sông,
Với trăm họ lầm than bể khổ.

Ngài sẵn sàng uống cho đời chén thuốc cay:

Hay vì sanh chúng còn lao lý,
Nguyện uống cho đời chén thuốc cay.

Và sẵn sàng chịu khổ cho bá tánh: Ta chịu khổ, khổ cho bá tánh.
Có thể nói, cao cả nhứt là lời thệ nguyện: ngày nào thế gian còn đau khổ thì ngày ấy Ngài chẳng riêng vui nơi cõi Tịnh độ:

Nếu thế gian còn chốn mê tân,
Thì Ta chẳng yên vui Cực Lạc.

Và khi nào nền Đại Đạo được khai thông, đuốc từ bi được rọi khắp, bể trầm luân đã khô cạn thì ngày ấy Ngài mới đành trở về ngôi vị cũ:

Nếu chừng nào khai thông Đại Đạo,
Đuốc từ bi rọi khắp dương gian.
Bể trầm luân khô cạn sáu đàng,
Tăng sĩ mới trở về nơi thanh tịnh.

Câu thệ nguyện nầy thật là lớn lao to tát, sánh không khác câu thệ nguyện của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát: “Tôi từ ngày nay cho đến tột đời vị lai không biết bao nhiêu số, quyết vì những chúng sanh tôi khổ ở trong sáu đường mà thi thiết nhiều phương tiện khiến cho giải thoát được hết, rồi thân tôi đây mới thành Phật đạo”

Bản nguyện bi thiết ấy được viên mãn là khi nào cõi Địa ngục bị xóa bỏ, cũng như bản nguyện của Đức Huỳnh Giáo Chủ được giải thệ là khi nào cõi thế gian khô cạn sáu nẻo luân hồi.

Cái ngày mà chúng sanh hết còn trầm luân trong bể khổ ấy, tức là ngày thế gian hết phiền não, ngày Chúa vững ngai vàng trong cõi Thượng Nguơn Thánh Đức thì ngày đó Ngài mới rời cảnh tục trở lại cảnh Tiên:

Chúa vững ngai vàng, Sãi mới yên,
Rời ngay cảnh tục trở về Tiên.
Chẳng còn tham luyến nơi trần thế,
Vì cả thế gian hết não phiền.

Chí nguyện của Đức Huỳnh Giáo Chủ, xem đó, thật là bi thiết, thật là vĩ đại, chỉ hàng Đại Bồ Tát mới phát hoằng thệ nguyện như thế.

 


Chương VI: Lưu cư [trở lại đầu trang]

ĐỘNG CƠ. – Gần gót một năm ra cứu đời, dùng huyền diện của Tiên gia độ bịnh, ra thi thơ Sấm Giảng thức tỉnh người đời, nhứt là những người có căn tu hành theo Đức Phật Thầy Tây An, đã nhận chân Đức Huỳnh Giáo Chủ là một vị siêu phàm giáng trần có sứ mạng cứu dân độ thế, nên qui ngưỡng một ngày một đông, gây thành một phong trào khá lan rộng, khiến nhà cầm quyền để ý đến, bèn cho mật thám theo dò la, nhưng chưa vội can thiệp.


a) Động cơ thứ nhứt. –
Có nhiều sự việc đáng làm cho chúng e ngại, lo ngại nhứt là số tín đồ mỗi lúc mỗi tăng một cách kinh khủng.

Và điểm đáng lo ngại khiến nhà cầm quyền Pháp đi đến quyết định an trí hay lưu cư Ngài là những điểm sau đây:
Trong Sấm Giảng có những câu bộc lộ huyền cơ làm cho chúng nghi là Ngài có mưu định Cần Vương hay chủ trương phục hồi đế nghiệp.

Để đáp ứng sự đòi hỏi của tín đồ quá đông đảo, Sấm Giảng phải in thành sách, chớ không thể chép tay hay đánh máy như lúc ban sơ. Nhưng muốn in, nhà in đòi hỏi phải có giấy phép của sở kiểm duyệt. Như có lần anh em đem kiểm duyệt, nhà cầm quyền giữ lại một thời gian, vì có những câu chúng không chấp thuận. Nếu bằng lòng sửa chữa lại, chúng mới cho phép in. Những điểm chúng kiểm duyệt là những câu nói về Thánh Chúa.
Chẳng hạn như câu:

Chẳng qua là Nam Việt vô vương,
Nên tai ách xảy ra thảm thiết.

Sau phải sửa lại:

Chẳng qua là Nam Việt vô duơn,
Nên tai ách xảy ra thảm thiết,
Hay những câu nói về thiên cơ:
Hết Tây rồi đến Huê Kỳ,
Sưu cao thuế nặng vậy thì thiết tha.

Sau phải sửa lại:

Hết đây rồi đến dị kỳ,
Sưu cao thuế nặng vậy thì thiết tha.

Hay là câu:

Để gặp chúa ngồi mà than khóc,
Gỡ làm sao hết rối thì về.

Sau phải sửa lại:

Để gặp Phật ngồi mà than khóc,
Gỡ làm sao hết rối mà về.

Cũng như trong bài Ngũ nguyện, về câu nguyện thứ nhứt:

“Nam mô nhứt nguyện cầu: Thiên hoàng, Địa hoàng, Nhơn hoàng Long Hoa hải hội, Thượng Phật từ bi, Minh Vương trị chúng, thế giới bình an”.

Sau phải sửa lại:

“Nam mô nhứt nguyện cầu: Thiên hoàng, Địa hoàng, Nhơn hoàng, Liên hoa hải hội, Thượng Phật từ bi, Phật vương độ chúng, thế giới bình an”.

Ngoài ra, chúng còn cho lính theo dõi và chép được những bài chưa in ra, nhưng được truyền tay, truyền khẩu nhau có tánh cách chống Pháp.
Chẳng hạn như bài Bánh mì:

Mì kia gốc phải nước mình không?
Nghe thấy rao mì thốt động lòng.
Chiếc bánh não nùng mùi khách lạ,
Bát cơm đau đớn máu ông cha.
Văn minh những vỏ trưng ba mặt,
Thắm thía tim gan ứa mấy dòng.
Nhớ lại bảy mươi năm trở ngược,
Say mì lắm kẻ bán non sông.

Bài nầy chưa mấy rõ nghĩa chống Pháp bằng bài “Cờ tam sắc”

Tam sắc cờ bay phất phới mà !
Ngồi nhìn nhớ kỹ héo lòng ta.
Thuở xưa đâu có cờ tam sắc,
Gặp cảnh vong bang ứa ruột ra.

Về bài “Cờ tam sắc”, Đức Thầy cảm thấy thế nào cũng bị bọn gia nô của Pháp bắt bí nên chi Ngài sửa lại để đánh lạc hướng đám “chó săn chim mồi”. Ngài sửa lại như vầy:

Tam sắc cờ bay phất phớ mà
Ngồi nhìn khoăn khoái cõi lòng ta.
Thuở xưa đâu có cờ tam sắc,
Nay hiệp Tây Đông thể ruột rà.

Quả thật, sau đó tay sai của Pháp đến muốn nghe bài thơ ấy, nhưng cụt hứng khi nghe một tín đồ đọc lại bài thơ đã sửa chữa.

Mặc dầu sách in được kiểm duyệt, các bài truyền khẩu được lột bỏ những điểm chống Pháp, nhưng những khoản kiểm duyệt cũng như những bài truyền khẩu có tánh cách chống Pháp được kết tập thành hồ sơ kể cả những cuộc đối đáp của Đức Huỳnh Giáo Chủ với những người đến tiếp kiến, những ý kiến được xem là bài Pháp hay phục hồi đế nghiệp hoặc phục quốc cũng được chúng sưu tầm và mật báo tất cả. Chẳng hạn như câu Ngài đáp một người hỏi Ngài tại sao tu mà còn để tóc, không thế phát như các nhà sư thì Ngài đáp một cách khí khái: Vì tôi không muốn để người ta cạo đầu.
Danh từ “cạo đầu” được bọn gia nô diễn dịch là có ý bất phục đối với nhà cầm quyền bảo hộ.

Sở Liêm phóng cho sưu tập những tư tưởng “phản nghịch” ấy lập thành hồ sơ, và sau khi nghiên cứu, chúng đi đến kết luận: Đức Huỳnh Giáo Chủ là người khá nguy hiểm và nền Đạo của Ngài là một tổ chức “chống Pháp” trá hình tôn giáo rất nguy hại cho an ninh, chánh sách thực dân thống trị. Do đó mà chúng quyết định an trí Ngài.


b) Động cơ thứ hai. – Ngoài tài liệu thu thập trong Sấm Giảng có tánh cách chống Pháp, còn có việc Ông Đạo Tưởng nổi loạn ở Tân Châu cũng là một động cơ khiến nhà cầm quyền Pháp quyết định lưu cư Đức Huỳnh Giáo Chủ để ngừa hậu hoạn.

Như kỳ đăng sơn thứ tư, khi còn ở trên núi Tà Lơn, Đức Thầy có nói với Biện Đài lý do tại đâu phải về. Lý do đó là vụ Đạo Tưởng nổi loạn ở Tân Châu. Và khi về đến Cần Giọt được nghe tài xế và lơ xe chạy đường Châu Đốc và Cần Giọt tường thuật vụ Đạo Tưởng giết người tế cờ rất rõ. Vụ ấy xảy ra như sau:

Ông Đạo Tưởng tên thật là Lâm Văn Quốc, cũng gọi Đạo Quốc, có lập một am để tu tại xã Long Phú cách quận lỵ Tân Châu độ một cây số ngàn. Ông tự nhận là môn phái của Bửu Sơn Kỳ Hương gốc Thất Sơn và qui tụ một số tín đồ khá đông.

Một hôm, ông tự xưng là Minh hoàng và phong tước cho một số môn đệ, nào là chức Vương, Quốc sư, Nguyên soái, Tiên phong, Đô đốc, chuẩn bị một cuộc khởi nghĩa phục quốc. Ông huấn luyện võ nghệ, cho rèn gươm đao và khoe có phép làm súng bắn không nổ.

Thế rồi đêm mùng 8 rạng ngày mồng 9 tháng giêng năm Canh Thìn, Ông phát động cuộc khởi nghĩa. Hành động đầu tiên là giết người để tế cờ. Con vật được ông chọn hy sinh là gia đình Hương tuần Hiếm bị nghi làm tay sai cho Pháp. Sau khi bố trí châu đáo, bọn ông vây nhà và bắt vợ chồng Hương tuần Hiếm chặt đầu làm lễ tế cờ, gây thành một cuộc náo loạn kinh hoàng tại Tân Châu.

Nhà cầm quyền Pháp bèn cho lính đến đàn áp. Đạo Tưởng và đồng bọn tin ở tà thuật làm cho súng bắn không nổ nên hiên ngang đem gươm giáo ra chống cự. Rốt cuộc súng vẫn nổ và bọn Đạo Tưởng đều bị bắn hạ; kết quả năm bảy mạng bị giết và gần 30 người bị bắt.

Thế là màn xưng bá đồ vương của Đạo Tưởng chấm dứt.
Cuộc rối loạn do một nhóm người tự nhận là tu hành, là môn phái Bửu Sơn Kỳ Hương gây ra làm cho nhà cầm quyền Pháp có thái độ cứng rắn đối với Đức Huỳnh Giáo Chủ.

Để tránh hậu hoạn, một cuộc nổi dậy của tôn giáo, tương tự như vụ Đạo Tưởng, nhứt là đã có tài liệu chứng thật Đức Huỳnh Giáo Chủ có tinh thần chống Pháp và đạo của Ngài thu hút tín đồ không thể tưởng tượng, có thể nguy hại cho chế độ thực dân thống trị. Nên chi bọn thực dân quyết định dời Ngài ra khỏi tỉnh Châu Đốc và an trí ở một nơi khác.


a) Đi Châu Đốc. –
Quyết định nầy được mật báo cho quận trưởng Tân Châu lúc bấy giờ là ông Nguyễn Văn Lễ. Ông nầy có bà vợ là tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo. Sau khi được chồng cho biết ý định của người Pháp, bà Lễ liền chiều ngày mồng 10 tháng 4 Canh Thìn đi xe ngựa xuống Chợ Vàm cho ông Huỳnh Hữu Phỉ hay cái hung tin ấy.

Ông Phỉ cấp tốc đi xe đạp xuống Hòa Hảo cho Đức Thầy hay để có lo toan cách ứng phó. Ngài rất thản nhiên, trong lúc anh em tín đồ đều lo âu, sợ cho Ngài phải bị tai họa đến lụy thân khổ xác.

Ngài tươi tỉnh nói để trấn an mọi người: không có gì mà phải sợ. Không ai làm hại được Thầy đâu. Anh em cứ an tâm. Mặc dầu Ngài nói vậy, chớ toàn thể tín đồ đều lo ngại.
Qua ngày sau tức ngày 12 tháng 4 năm Canh Thìn vào lúc 7 giờ, nhà cầm quyền Pháp đến Hòa Hảo chở Ngài đi Châu Đốc, vội vã đến đỗi không kịp cho Ngài thay đồ hay mang hành trang theo. Lúc bấy giờ Ngài mặc áo không túi nên cái giấy thuế thân, Ngài đành lấy giấy gói lại rồi cầm trong tay.

Khi đến Châu Đốc, vài giờ sau, vâng theo lịnh của cấp trên, nhà cầm quyền địa phương cho chở Ngài rời khỏi tỉnh, thay vì đưa xuống tỉnh Long Xuyên, chúng lại đưa xuống tỉnh Sa Đéc, cách tỉnh Châu Đốc một tỉnh, ý chừng họ muốn đoạn hẳn liên lạc với quê nhà tưởng nơi xa lạ khó truyền giáo và thu hút tín đồ hơn.

Đứng trước sự dời Ngài đi đột ngột như thế anh em tín đồ đều ngơ ngác, đến rơi lệ, chỉ nhìn theo chớ không làm sao hơn được, trước sự rào đón, ngăn chặn hăm he của chánh quyền.


b) Đến Sa Đéc. –
Đến Sa Đéc, Ngài được đưa đến sở mật thám, lúc bấy giờ do ông cò Bazin điều khiển. Gặp lúc ông nầy đi vắng, bà vợ người Việt có tâm mộ đạo, đối xử rất tử tế. Đến khi cò Pháp về, bèn hỏi Ngài có phải Ngài là tác giả mấy quyển Sấm Giảng không? Ngài nhận chính tay Ngài viết. Viên cò không tin với sức học của Ngài có thể sáng tác nổi, nên chỉ muốn thử Ngài. Nếu thật ông viết thì ông thử viết cho tôi coi.
Ngài không ngần ngại đem giấy mực ra viết bài “Sa Đéc” trước mặt viên cò Bazin, rồi đọc cho ông cò nghe.
Trong bài nầy Ngài tỏ bày nỗi lòng bi cảm đối với anh em tín đồ trong những dòng thống thiết như sau:

Muốn lập đạo có câu thành bại,
Sự truân chuyên của khách thiền môn.
Khắp sáu châu nức tiếng người đồn,
Ta chịu khổ, khổ cho bá tánh.
Tiếng gọi đời sông mê hãy lánh,
Chạm lợi quyền giàu có cạnh tranh.
Bước chông gai đường đủ sỏi sành,
Đành tách gót lìa quê hương dã.
Ta cũng chẳng lấy chi buồn bã,
Bởi sự thường của bực siêu nhơn.
Dầu gian lao dạ sắt chẳng sờn,
Miễn sanh chúng thông đường giải thoát.
Cơn dông tố mịt mù bụi cát,
Chẳng nao lòng của đấng từ bi:
Vì Thiên Đình chưa mở hội thi,
Nên Lão phải phiêu lưu độ chúng.
Kẻ ác đức cho rằng nói túng,
Nó đâu ngờ lòng Lão yêu đương.
Xe rồ xăng vụt chạy bải bươn,
Đến khuất dạng tình thương náo nức.
Khắp bá tánh chớ nên bực tức,
Bởi nạn tai vừa mới vấn vương.
Chốn Liên Đài bát ngát mùi hương,
Nhờ chỗ ấy mới thi công đức.

Đọc xong, viên cò Pháp phải nhận Ngài là một thiên tài xuất chúng và cho về ngụ nhà ông Phán Đặng.
Tưởng đến Sa Đéc, Ngài sẽ dừng chơn ở yên để tiếp tục cuộc hóa độ, đáp lại lòng mong cầu của mọi người, chớ có dè đâu nhà cầm quyền ở đây thấy ảnh hưởng của Ngài quá lớn, thu hút người khắp nơi tấp nập kéo đến, nên quyết định cấm Ngài truyền đạo. Thế là Ngài lên đường đi tỉnh khác, tùy Ngài chọn lựa.
Hay tin, anh em tín đồ rất lo buồn, nhưng theo Ngài thì đó là một dịp cho Ngài phổ thông rộng rãi mối đạo.

Ta còn thương, thương trò lịu địu,
Chớ cũng mừng được dịp phổ thông.

Mà cũng là cơ thử thách của tạo hóa đề xem người hành đạo có vững chí làm theo lời Ngài chỉ dạy hay không?

Việc khó khăn lắm lúc khôi hài,
Ấy cũng bởi thày lay ông Tạo.
Ông nhồi quả cho người hành đạo,
Lúc nguy nàn thối chí cùng chăng ?
Nếu bền lòng vị quả cao thăng,
Chẳng chặt dạ bỏ lăn Phật Thánh.


c) Đến Cần Thơ. –
Được tin nhà cầm quyền Sa Đéc ra lịnh trục xuất Ngài, ngày 17 tháng 4 Canh Thìn anh em tín đồ đem xe đến đưa Ngài xuống Cần Thơ, rồi cô Hai Gương thỉnh Ngài về ở nhà Hương Bộ Võ Mậu Thạnh là cậu của cô ở làng Nhơn Nghĩa, rạch Sua Đủa, cũng gọi là kinh Xà No.
Đến đây Ngài được ở yên nên khởi lại việc cho thuốc, cho thi bài, tiếp tục cuộc hoằng hóa như hồi còn ở Hòa Hảo. Nhân việc phát phù trị bịnh, Ngài còn làm một bài thơ về giấy vàng có hàm ý tiên tri sự biến đổi thời cuộc.

Giấy vàng nay đã giá cao tăng,
Bìa trắng lại chê vội bỏ lăn.
Thương thảm chúng quăng nằm kẹt hóc,
Chủ nhà quét tước lượm lăng xăng.

Trong thời gian lưu cư tại Nhơn Nghĩa, Ngài sáng tác và thi họa cũng nhiều. Số tín đồ thâu nhận cũng khá đông, như Ngài đã viết:

Nhân dân bá tánh cũng con lành,
Thầy dạy cho đều khắp chúng sanh.
May mắn vận thời đưa đến chốn,
Tiền khiên dẹp gát kiếm con lành.


d) Vào bịnh viện Chợ Quán. –
Nhận thấy ảnh hưởng ở đây cũng vang dội và thu hút tín đồ một cách phi thường, nhà cầm quyền không muốn cho Ngài hoạt động nữa. Như đã biết, Ngài được tự do chọn lấy chỗ lưu cư do đó Ngài đưa đơn xin đi Bạc Liêu.

Thế là ngày 29 tháng 6 năm Canh Thìn, Ngài từ giã Nhơn Nghĩa, nhưng khi ra đến Cần Thơ, nhà cầm quyền giữ Ngài lại và đưa vào bịnh viện Chợ Quán lấy cớ khám nghiệm coi Ngài có mắc bịnh thần kinh không?
Khi vào đây, ban sơ chưa ai biết Ngài. Ngay như viên lương y cai quản bịnh viện là ông Trần Văn Tâm cũng ngộ nhận nên mới nói bỡn khi gặp Ngài: Ở ngoài xé hết bao nhiêu giấy thuế thân của người ta rồi? Nhưng khi thấy cử chỉ của Ngài đoan trang và số tín đồ đến thăm quá đông mới nghi Ngài là ông Đạo.

Ông bèn đem những điều đọc trong một quyển sách Pháp về đạo Phật mà ông còn thắc mắc đến chất vấn thì được Ngài giải đáp một cách tinh thông, khiến ông phải ngạc nhiên đến khâm phục. Càng kính phục hơn nữa là khi Ngài cho thấy điều huyền diệu, như một hôm ông vào phòng Ngài thì thấy một cụ già đầu râu bạc phiếu nằm trên giường. Ông tưởng đi lộn phòng, bèn trở ra để tìm phòng, nhưng khi định tỉnh xem lại số phòng quả quyết chính là phòng của Ngài, nên quày trở vào thì lạ thay, thay vì ông lão khi nãy lại là Đức Huỳnh Giáo Chủ. Chừng đó ông mới hoàn toàn tín phục, xin thọ giáo qui y. Nhờ vậy Ngài tiếp tục công việc hoằng hóa dễ dàng. Mỗi ngày người đến xin thuốc, cũng như hàng thức giả đến hỏi đạo và qui ngưỡng càng lúc càng đông.

Trong lúc ở bịnh viện, có một việc đáng nêu ra là trường hợp của anh gác cửa. Anh nầy lúc đầu tỏ ra khó khăn đối với anh em tín đồ đến thăm. Anh có một người mẹ đau mắt, chữa nhiều thầy mà không khỏi, khi nghe Ngài chữa bịnh kỳ diệu thì đưa mẹ đến. Ngài chỉ cho một chai nước lã về nhỏ, thế mà khỏi bịnh. Anh đem lòng khâm phục, gọi Ngài là Phật sống. Từ đó trở đi, anh đối xử rất cảm tình với anh em tín đồ không làm khó khăn như trước.
Trong thời gian ở Chợ Quán, Ngài viết nhiều bài vở, nhưng đáng kể là quyển “Những điều sơ lược cần biết của kẻ tu hiền” và quyển “Khuyến Thiện” chỉ rõ tận tường pháp môn Tịnh độ.

Hơn một năm cầm giữ Ngài để thí nghiệm, có thể do sự báo cáo của Bác Sĩ Tâm, nhà chức trách thấy Ngài không có gì tỏ ra mắc bịnh thần kinh, nên xét theo lời xin trước kia khi Ngài ở Xà No, bèn chấp thuận cho Ngài lưu cư về Bạc Liêu.
Và có thể nhận thấy tại Chợ Quán, nơi phồn hoa đô hội có nhiều phần tử thức giả qui ngưỡng nên sợ ảnh hưởng của Ngài lan rộng cả vùng Saigon Chợ Lớn, Gia Định, vì vậy mà định dời Ngài đi chỗ khác. Xét lại Bạc Liêu là một tỉnh ở mút miền Nam nước Việt lại là tỉnh, phần đông dân cư thuộc thành phần lai Miên lai Tàu, chuyên việc buôn bán, nếu đưa Ngài đến đó khó mà gây ảnh hưởng sâu rộng được.

Mặc dầu chấp nhận dời Ngài về Bạc Liêu nhưng nhà cầm quyền còn cố giữ lại trong một tuần lễ để giao cho sở mật thám dò xét. Họ đưa Ngài vào bót Ca-ti-na (Poste Catinat) ngày 11 tháng 5 Tân Tỵ (1941).
Đến ngày 19 nghĩa là sau 8 ngày giam giữ, Ngài mới lên đường đi Bạc Liêu.


đ) Đến Bạc Liêu . –
Ngài định đến ngụ tại nhà ông Hội Đồng Điều như Ngài đã dự tính khi ở Nhơn Nghĩa, nhưng nhà cầm quyền không chấp thuận bảo Ngài chọn chỗ khác, cố ý làm khó dễ nhứt là làm ngược lại ý định của Ngài.
Trong số anh em tín đồ ở đây, có bà Cò tàu Hảo đóng vai trọng yếu. Bà đến thương lượng với ông bà Võ Văn Giỏi, cựu thơ ký soái phủ Nam Kỳ thì được ông bà sẵn sàng nghinh tiếp. Ngài đến trình với Công an và được chấp thuận với điều kiện là không được: phát phù trị bịnh, thuyết pháp độ nhơn và mỗi tuần, vào ngày thứ hai phải đến trình diện Công an một lần.
Nhơn đó, Ngài có làm ba bài thơ tức cảnh như sau:

Việc chi mà phải đi trình báo,
Mỗi tháng bốn kỳ nhọc cẳng Ông.
Đợi máy huyền cơ xoay đến mức,
Tính xong cuộc thế lại non Bồng.
***
Thứ hai hừng sáng mưa tầm tã,
Lính đứng ngoài đường giục giã Ông.
Kiếp khách trần gian vay lắm nợ,
Để đền trọn nghĩa với non sông.
***
Người cười người nhạo bảo Ông điên,
Ông chẳng giận ai cũng chẳng phiền.
Chỉ tiếc trần gian đùa quá vội,
Chưa tường Điên tục hay Điên Tiên.

Vì cấm đoán đến viếng thăm, anh em tín đồ không vào cửa được, đành đứng lóng nhóng bên ngoài rồi về, tạo thành tiếng đồn đến nhà cầm quyền. Hơn nữa theo sự dò xét của công an cũng thấy đúng sự thật nên từ đó sự canh phòng cũng lơi đi. Nhờ vậy Ngài tiếp xúc được nhiều nhân sĩ và hào phú đến vấn an qui y, trong số ấy được biết: ông Cả Hốt (tức Dương Vĩnh Phước), ông bà Chung Bá Khánh, ông bà Võ Văn Giỏi… trở thành tín đồ thuần thành.(1)
_______________________________________________________________________

(1). Cũng trong thời gian nầy (năm 1942), tác giả ra mắt Đức Thầy và được Ngài tiếp kiến từ 7 giờ sáng đến 2 giờ trưa, khi thấy dọn cơm mới bái tạ lui ra.

Trong thời gian ở Bạc Liêu, Ngài sáng tác rất nhiều bài vở, nhứt là lối tản văn, giải bày về giáo lý nhà Phật, như Thập Nhị Nhân Duyên, Tứ Diệu Đế…

Cũng nên nói qua tình hình trong lúc nầy. Quân đội Nhựt đã vào Đông Dương và lấn dần quyền hành của chánh phủ thuộc địa Pháp. Người Nhựt cho chiêu mộ người Việt vào quân đội. Có một số người Việt hưởng ứng, gia nhập hàng ngũ và được đưa về Đông Kinh huấn luyện, khi thành tài trở lại hoạt động nơi nước nhà với ý định hợp tác với quân Nhựt gở ách nô lệ, lấy lại chủ quyền quốc gia.

Trong hàng ngũ những người ái quốc ra hợp tác với quân Nhựt, có tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo. Hẳn họ có bổn phận phải cứu Đức Thầy ra khỏi sự kềm kẹp của người Pháp, nên vận động với nhà binh Nhựt ở Sài Gòn và được sự chấp thuận.

Vả lại, người Nhựt nhận thấy Phật Giáo Hòa Hảo có một khối tín đồ to tát ở miền Nam, có thể lợi dụng lòng yêu nước của họ trong công cuộc hạ Pháp, nếu thi ơn giải cứu được vị Giáo Chủ của họ. Như thế sẽ mua chuộc được cảm tình của khối quần chúng đông đảo nầy.

Mưu định giải cứu Đức Thầy có thể nhà cầm quyền Pháp dò biết, nên chúng định lưu cư Ngài qua Ai Lao. Nhưng chúng chẳng dè quân Nhựt lại ra tay trước.
Sở Hiến Binh Nhựt bèn phái ông Kimura cùng đi với một vài tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo xuống Bạc Liêu rước Ngài về Sài Gòn trong đêm mồng 2 tháng 9 năm Nhâm Ngọ (11-10-1942).
Vì đi đêm lại không rành đường nên tài xế lái xe đi đường về Cà Mau, đến Tắc Vân xe hư máy. Ông Kimura phải mượn xe của Bang trưởng Triều Châu chạy trở lại Bạc Liêu rồi thẳng đường về Sài Gòn. Vì vậy mà Pháp hay tin kịp.


e) Về Sài Gòn. –
Nhưng xe vừa đến ngã ba Trung Lương (Mỹ Tho) thì gặp xe công an chận lại. Vì thế xảy ra tai nạn đụng xe làm cho ông Lâm Thơ Cưu theo hầu Ngài bị thương ở sóng mũi, còn Ngài chỉ bị thương xoàng. Công an Pháp cho điệu tất cả về Sài Gòn. Hay tin nầy nhà binh Nhựt can thiệp và phản kháng kịch liệt. Bọn Pháp giành bắt Đức Thầy còn nhà binh Nhựt thì quyết giựt lại viện cớ Đức Thầy có liên lạc với Trùng Khánh. Trước sự can thiệp quyết liệt của nhà binh Nhựt, bọn Pháp đành nhượng bộ. Thế là Đức Thầy được giải cứu. Nhà binh Nhựt đưa Ngài về phòng Thương Mãi (Hội trường Diên Hồng) lúc bấy giờ là cơ sở của Hiến Binh Nhựt. Ngài lưu lại đây trong vòng hai tháng rồi dọn về số 148 đường Lefèvre, hiện nay là đường Nguyễn Công Trứ, phía sau Thượng Nghị Viện. Sau đó ít lâu dọn qua căn số 150 kế đó cho đến ngày Nhựt đảo chánh Pháp.

Từ khi quân Nhựt giải cứu Đức Thầy và đem Ngài về ở tại phòng Thương Mãi, trong vòng bảo vệ của Hiến Binh Nhựt, thì quân Pháp khởi sự khủng bố tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo vì chúng cảm thấy số phận của chúng lâm nguy nếu để quân đội Nhựt lôi cuốn được sự hợp tác của khối tín đồ đông đảo nầy.

Nhiều nơi tín đồ bị bắt bớ, những người có uy tín ở Lục tỉnh phải tầm đường ẩn lánh lên Sài Gòn nhờ sự che chở của Đức Thầy. Vì vậy mà Ngài phải dành cả căn phố cho anh em tá túc. Về thực phẩm thì anh em ở Lục tỉnh thường xuyên tiếp tế.

Có hôm, sau khi dùng cơm trưa, anh em nằm nghỉ, Đức Thầy bước qua thấy anh em nằm sấp lớp không khác gì tằm trong nông thì nói rằng: Có khác gì tằm đâu, khi ăn dâu no rồi thì nằm nghỉ. Nhưng đây là thứ tằm không kéo kén.
Đây là những anh em hữu phước được Đức Thầy chở che nên thoát khỏi sự khủng bố của quân Pháp.

Chỉ thảm thương cho một số anh em khác, vì không kịp thoát thân nên bị quân Pháp bắt và đày đi. Người lên Bà Rá, kẻ ra Côn Đảo. Có một số lớn đã bỏ thây nơi rừng thiêng nước độc hay gởi xương ngoài Côn Đảo. Trong bảng “Những Thánh tử Đạo” nên ghi nhớ những tên Ông Cả Đô, Ông Cả Từ, ông Dương Thiện Tứ tự Sừ.

Trong lúc tá túc tại nhà ở đường Lefèvre, có một số anh em tín đồ, vì chờ mãi thời cuộc mà không thấy biến chuyển nên đâm ra chán nản, hoặc than trách hoặc bỏ đi.

Cũng có người tỏ ý không bằng lòng khi Đức Thầy để cho người Nhựt bảo vệ. Như thế sợ e mang tiếng ỷ lại vào ngoại bang thì Ngài có làm hai câu đối sau đây để tỏ ý chí bất khuất của Ngài:

Trương Tiên Tá Hớn phi thần Hớn,
Quan Thánh cư Tào bất đê Tào.

Mặc dầu chưa tung bay cất cánh, thỏa chí chim bằng, Ngài cũng bắt đầu tiếp xúc các nhà trí thức, nhứt là những nhóm ái quốc, thừa cơ hội uy thế của Pháp bị quân Phù Tang làm giảm hạ, đứng ra tập hợp hàng ngũ, tổ chức thành đoàn thể chánh trị, đương nhiên thân Nhựt. Trong số đó được biết nhóm ông Ngô Đình Đẩu, Trần Văn Ân… trong Ủy Ban Trung Ương Việt Nam Phục Quốc Hội, nhóm Việt Nam Thanh Niên Ái Quốc Đoàn của ông Đinh Khắc Thiệt.
Đối với đoàn Thanh Niên Ái Quốc, Ngài có phái ông Hồ Nhựt Tân đến tham gia các phiên họp để trợ trưởng tinh thần và tài chánh Ngài cũng có làm thơ tặng đoàn để khích lệ chí anh hùng, đề cao lòng yêu nước, trong những câu như sau:

Thanh niên nghĩa vụ phi thường,
Phận là phải biết yêu thương giống nòi.
Nay chẳng lẽ ngồi coi thắng bại,
Của cọp rồng trên dãy đất ta.
Một khi cọp đã lìa nhà,
Biết rồng có chịu buông tha chăng cùng?
Vậy anh em phải chung lưng lại,
Dùng sức mình đánh bại kẻ thù;
Tỏ ra khí phách trượng phu,
Vung long tuyền kiếm tận tru gian thần.
Xưa nước đã bao lần khuynh đảo,
Được cứu nguy nhờ máu anh hùng;
Hy sinh báo quốc tận trung,
Đem bầu nhiệt huyết so cùng sắt gang,
Việt Nam là giống Hồng Bàng,
Muôn đời xa lánh tai nàn diệt vong.

Ngài không ngớt tiếp xúc và chuẩn bị hàng ngũ, vì Ngài tiên đoán cơ hội sẽ đến cho dân Việt Nam tranh đấu, giành lại chủ quyền đã mất trong tay Pháp ngót 80 năm nay. Ngày mà mọi người mong đợi ấy đã điểm. Đó là ngày mồng 9 tháng 3 năm 1945, ngày Nhựt đảo chánh Pháp, ngày Đức Huỳnh Giáo Chủ chấm dứt giai đoạn ràng buộc bước sang giai đoạn công khai hoạt động đấu tranh.

[trở lại đầu trang]