Phật Giáo Hòa Hảo Trung Ương Hải Ngoại

Thiên V: Sự-nghiệp về mặt Đời: Công-nghiệp cánh-mạng

Mục Lục ĐỨC HUỲNH GIÁO-CHỦ

Chương XV: Quân-sự: Bộ-đội Nguyễn-Trung-Trực [trở lại đầu trang]

Sứ mạng giáng trần của Ðức Huỳnh Giáo Chủ, như đã biết là để cứu độ chúng sanh trong thời kỳ hoại diệt hầu tuyển chọn người hiền đức đưa sang cõi đời Thượng nguơn.

Và cho được trở thành người hiền, Ngài đã hiển thị pháp môn Học Phật Tu Nhân là một pháp môn, nếu ai hành y sẽ trở thành bậc Hiền Ðức, điều kiện duy nhứt được dự Hội Long Hoa và sống còn đời Thượng nguơn an lạc.

Đó là phần thuộc về lý thuyết hay giáo lý, nhưng quan trọng là phần hành sử hay thực hành, vì rằng năng thuyết mà bất năng hành thì không khác người nói ăn cơm mà miệng không ăn thì bụng đói vẫn hoàn bụng đói. Có thuyết mà không hành thì lý thuyết ấy trở thành vô dụng.

Cho nên điều trọng yếu là ở phần thực hành, phần đem áp dụng những lý thuyết ấy vào đời sống xã hội. Muốn đào luyện môn nhơn đệ tử nên người hiền như chương trình đã ấn định, Ðức Huỳnh Giáo Chủ chẳng những vừa chỉ dạy mà còn vừa đúng ra hướng dẫn môn nhơn cùng thực hành. Ngài không quản dấn thân làm gương mẫu cho môn nhơn noi theo. Như vậy chẳng những tạo cho môn nhơn tinh thần dạn dĩ mà còn gây cho họ niềm tin tưởng ở kết quả chắc chắn của việc làm.

Do công lao vừa chỉ dạy vừa đích thân thực hành mà Ngài đã tạo nên, về mặt Đời, hai sự nghiệp vĩ đại đối với quốc gia dân tộc. Đó là Bộ đội Nguyễn Trung Trực về mặt quân sự và Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng về mặt chánh trị. Về phương diện giáng thế cứu trần, hạnh của Ðức Huỳnh Giáo Chủ sánh không khác hạnh của Ðức Phật Thích Ca mà Ngài tự nhận là một đệ tử trung thành, một lòng nối chí.

Khi giáng trần, Ðức Phật Thích Ca đã đắc quả Nhứt sanh bổ xứ với danh hiệu là Hộ Minh Bồ Tát từ cõi trời Đâu Suất lâm phàm. Thế mà khi vào đời, Ngài vẫn làm như người thường, cũng học hỏi, lấy vợ sanh con, cũng tu hành, ngồi tham thiền như bao người tầm thường khác trong đời, cũng gặp bao nhiêu chướng ngại khó khăn, bị phá phách mà không ngã lòng cho đền ngày thành đạo, chứng quả chánh đẳng chánh giác, không có gì là phi phàm, ngoài vòng thế tục. Có sống như người đời, làm như người đời, người đời mới nhận thấy sự tu hành không khó, ai cũng làm được miễn là có chí bền, nên mới nông nả tu hành, làm theo các điều Phật đã hành để được một ngày kia, thành Phật như Phật.

Chớ nếu Ðức Phật Thích Ca xuống trần bằng cách phi thường, không cần mẹ sanh ra, lớn lên, học hỏi như người đời, chứng tỏ là một bực đã đắc quả Nhứt sanh bổ xứ Bồ Tát, chỉ còn tu một kiếp nầy là hoàn mãn công hạnh thành Phật thì chắc chắn người đời đâm ra chán ngán, ít ai dám làm theo Phật, tu theo Phật, vì thấy họ với Phật cách nhau rất xa không thể trong một kiếp mà tu thành Phật như Phật.

Hạnh của Ðức Huỳnh Giáo Chủ cũng thế. Như chúng ta đã biết, Ngài “là một trong các vị cứu đời… ai liễu đạo nơi quốc độ nào thì cũng phải trở về quốc độ ấy mà trợ tế nhân dân“, từ cõi Tây phương Cực Lạc, vưng lịnh chư Phật giáng thế độ đời, chứng tỏ Ngài đã đắc quả trong hàng Bồ Tát hay Phật.

Thế mà khi sanh ra đời, Ngài vẫn sống như bao nhiêu người tầm thường khác, cũng đi học, đau cũng uống thuốc, cũng ẩn núp khi bị oanh kích ngoài mặt trận và tự thấy mình có bổn phận hiếu kính đối với gia đình và nghĩa vụ đối với quốc gia dân tộc.

Đứng trước nạn vong quốc, Ngài không quên mình là một công dân của một nước bị trị, tự thấy có bổn phận tranh đấu đuổi xâm lăng, giành độc lập cho đất nước, tự do hạnh phúc cho đồng bào. Ngài đã biểu lộ lòng yêu nước nồng nàn của Ngài qua mấy vần thơ thống thiết như sau:

Hậu thế muôn thu xét thử nào?
Lòng nầy yêu nước biết là bao!

Ðể làm tròn bổn phận công dân đối với quê hương, hay trả ơn đất nước, Ngài quyết chống xâm lăng, dầu phải hy sinh tánh mạng:

Ách nô lệ dân ta đà chán biết,
Nên quyết lòng nổi dậy chống xâm lăng.
Chỉ quân Tây thề một tiếng rằng:
Thà cam chết, không làm dân bị trị.

Ngài không nệ rứt áo cà sa khoác lấy chiến bào, nguyền đánh đuổi xâm lăng, nêu cao cờ độc lập:

Thấy dân thấy nước nghĩ mà đau!
Quyết rứt cà sa khoác chiến bào.
Ðuổi bọn xâm lăng, gìn đất nước,
Ngọn cờ độc lập phất phơ cao.

Một lòng quyết chiến dầu phải dùng tầm vông vạc nhọn, cũng liều thân cứu nước:

Dân binh Nam Việt mấy ai bì,
Không súng tầm vông cũng vác đi.
Xông lướt trận tiền ngăn giặc mạnh,
Liều thân cứu nước lúc lâm nguy.

Dầu phải hy sinh xương máu đổi lấy tự do, miễn đáp đền ơn đất nước, không thẹn với tổ phụ và hổ mặt với cháu con mai hậu:

Nước lúc lâm nguy há đứng nhìn,
Lòng mong đại nghĩa, để thân khinh.
Máu đào xương trắng phơi đầy nội,
Quyết đổi tự do mới thỏa tình.

Thỏa tình được sống dưới trời đông,
Tổ phụ ngày xưa rất đẹp lòng.
Nhìn thấy cháu con không thẹn mặt,
Từ đây non nước thoát nguy vong.

Ngài tha thiết kêu gọi các thanh niên tráng sĩ, rường cột của nước nhà, hãy cùng nhau đứng lên giết giặc giành lại tự do, hãy noi theo chí hướng của các bực anh hùng tiền bối:

Bắc Nam một giải san hà,
Mồ hôi giọt máu ông cha tài bồi.
Trải qua cũng lắm hồi vận bĩ,
Rồi anh em tráng sĩ đứng lên.
Liều mình đụt pháo xông tên,
Tiếng roi lại bình Ngô, sát Đát.
Sử xanh còn ngào ngạt hương thơm,
Trông phường giá áo túi cơm.
Trông phường úy tử mà nhờm đi thôi,
Nay vận nước đến hồi thịnh thái.
Chí anh hùng ta hãy noi gương.
Một mai nước được phú cường,
Tấm thân tráng sĩ cột rường nhà Nam.

Chẳng những tự dấn thân vào cuộc tranh đấu chống xâm lăng giành độc lập, Ngài còn kêu gọi môn nhơn đệ tử cùng dõi gót theo Ngài, quét sạch quân thù bồi đắp non sông đất nước:

Khí thiêng liêng sông núi nhiệm mầu,
Un đúc giống anh hùng vang bốn bể.
Gương sáng ấy soi chung hậu thế,
Anh em ơi! Theo dõi gót cùng ta.
Ra tay quét sạch san hà,
Ra tay bồi đắp nước ta hùng cường.

Ngài hòa mình với các chiến sĩ trong phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam, như có lần Ngài đã tuyên bố trên báo Quần Chúng ngày 11-11-1946:

“Tôi, một đệ tử trung thành của đạo Phật, một chiến sĩ trì chí của phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam sẵn sàng cùng đoàn thể mình cương quyết đứng dậy đáp lại tiếng gọi của non sông, cương quyết tranh đấu để bảo vệ quyền lợi chung cho nòi giống”.

Ngài đã biểu hiện ý chí chiến sĩ bằng hạnh sống chung với tướng binh, ngày ngày có mặt trong cơ ngũ, cùng ăn chung, cùng ngủ chung với chiến sĩ, không phân biệt cấp bực tớ Thầy. Ngài cũng băng đồng lội nước, xông pha vào lằn tên mũi đạn, không có một cử chỉ nào tỏ ra cách biệt với anh em quân nhân.

Mấy chị đầu bếp có ý muốn phụng sự Ngài một cách riêng biệt thì Ngài chẳng ngại lời khiển trách. Bằng mọi cách từ chối khéo léo, đợi khi dọn cơm xong thành một cỗ dài, nay thì Ngài ngồi chỗ nầy, mai thì Ngài ngồi chỗ khác, không ngồi chỗ nhứt định, ngồi xen kẽ với chiến sĩ, thành thử dầu có muốn dọn riêng cho Ngài cũng không thể dọn được.

Có lần, lúc Ngài ở miền Ðông, quân Pháp kéo đến bắn phá, Ngài cũng như mọi người, xông pha chiến đấu. Chẳng may, Mười Trí bị đạn, Ngài chẳng ngại đưa lưng cõng qua một khúc rạch, tránh khỏi lằn đạn. Đến chừng tan cuộc, nhiều người bị thương hoặc nhiều hoặc ít, chỉ có riêng Ngài không hề hấn gì. Còn Mười Trí thấy vậy mới nói: Chú Tư có phép gì nên mới không bị thương.

Ngài thản nhiên trả lời: Tại tụi Pháp bắn dở không trúng. Mặc dầu nói vậy chớ cái nón của Ngài đội bị đạn lủng bấy. Ðiều nầy đối với đạo Phật không phải là một hiện tượng quái dị, vì theo kinh điển, hễ người thật Thần Tiên thì khi mó đến loại kim nó sẽ mềm nhũng như bùn.

Nói tóm lại, mặc dầu ở địa vị Giáo Chủ, siêu xuất trần gian:

Nghĩ mình trong sạch đã rồi,
Đào Tiên tạm thực về ngồi cõi xa.

Có thể không phải bận tâm lập thêm công quả trong đời nữa, nhưng vì mục đích cứu độ chúng sanh, Ðức Huỳnh Giáo Chủ, đã phương tiện “hòa quang hỗn tục”, muốn dìu dắt chiến sĩ phải làm thân chiến sĩ, muốn cứu đời phải mang thân ái quốc ưu đời, đúng với mục “đồng sự” của môn 4 phép Nhiếp hóa.

Ông Thanh Sĩ đã tỏ vai trò “hòa quang hỗn tục” của Ðức Thầy trong mấy câu thơ sau đây:

Ai người thấu đáo đục trong,
Thương Thầy xa cách bởi lòng yêu dân.
Muốn cứu thế mang thân ái quốc,
Ðộ nàn trong vạn vật muôn loài.
Thay hình đổi dạng ai hay,
Đúng người chiến sĩ xứng tài giáo dân.
Vì phương tiện thời nhân hóa độ,
Phải tùy đời giác ngộ chúng sanh.
Cũng người liệt liệt oanh oanh,
Cũng là giáo chủ tu hành cao siêu.

Phương chi, trong khi phương tiện gánh vác việc nước để làm gương mẫu cho môn nhơn đệ tử noi theo, Ngài đã lập thêm công đức: đền nợ nước, rửa thù Tổ Tiên hầu có viên mãn hạnh lành, như ông Thanh Sĩ đã cho biết trong những dòng ai cảm đối với ân đức của Ngài như sau:

Xuống dương thế cốt ban ân,
Ân kia chưa mãn mà thân xa mù.
Trước đem đạo khuyến người tu,
Sau đền nợ nước, rửa thù Tổ Tiên.
Ân ấy mãn mới lành duyên,
Ngày sau nhà Phật cửa Tiên được về.

Không có hạnh nào dư hay không cần thiết đối với những bực đã đắc quả Phật hay Bồ Tát. Càng làm công đức cứu thế độ đời thì núi hạnh càng cao. Mặc dầu đã thành núi nhưng nếu chồng chất thêm đá thì núi càng thêm cao vọi. Vì thế mà không ai tự nhận tu hành đã viên mãn không cần phải tu Tứ Ấn, gánh vác việc đời, hay “hòa quang hỗn tục”.

Thế nên ngày nào đời còn đau khổ, chư Phật Thánh Tiên vẫn còn phải lâm phàm cứu dân độ thế, còn phải “hòa quang đồng trần” để phương tiện dìu dắt chúng sanh, nương theo sự hóa độ của Phật Tiên mà lập công bồi đức hầu trang nghiêm hạnh lành, trước là làm nền tảng cho Tu Nhân, sau là hoàn mãn công đức thành Tiên Phật.

Noi theo gương hạnh của Ðức Phật, Ðức Thầy chẳng nệ tham gia vào công cuộc đấu tranh giành độc lập cho quê hương đất nước và đồng thời tạo ra phương tiện để dìu dắt môn nhơn cùng tham gia tranh đấu, trước để đền đáp ân đất nước trong Bốn Đại Trọng Ân, sau để lập công bồi đức hầu có đủ điều kiện dự Hội Long Hoa và sống còn đời Thượng nguơn Thánh Ðức.

Trong các hạnh thi thiết cứu đời, Ngài nhận thấy chỉ có hạnh vô úy là cao nhứt, nếu thực hành được, sẽ tạo nện công đức to tát để kịp thời hội đủ điều kiện trở nên người hiền, thay vì thực hành hạnh tài thí hay pháp thí phải tích lũy công đức lâu ngày, sợ không đủ thời giờ ky cỏm hạnh lành đủ để thành hiền đức trong lúc cơ hoại diệt còn chẳng bao lâu.

Ðể thực hiện hạnh vô úy, Ngài đã phương tiện tạo ra, về mặt quân sự: Bộ đội Nguyễn Trung Trực và về mặt chánh trị: Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng.

Thật là một cơ hội hiếm có cho người tu hiền ở thời kỳ này, lập lấy thân danh trong giai đoạn dân Việt Nam đứng lên hy sinh xương máu tranh đấu chống xâm lăng, giành độc lập tự do cho đất nước, như Ðức Huỳnh Giáo Chủ đã nhận:

Cuộc biến động nay mai nguy ngập,
Mội hội nầy rán lập thân sanh.

Ông Thanh Sĩ cũng nhận:

Nếu buổi nầy không lập được thân,
Chẳng còn dịp nào hưng danh phận.

Ông cha chúng ta đã khổ công tranh đấu, nhưng vì vận nước còn đen nên đành “vô kế khả thi”, tuy mưu không thành nhưng đã đáp đền ân sông núi.
Chúng ta may mắn hơn tiền nhơn, gặp hồi nước nhà vận đạt lai được có chư Phật Thánh lâm trần dìu dắt, trao cho ta phương tiện để thực hành hạnh vô úy.

Có nhận thức được chí nguyện cứu độ của Ðức Huỳnh Giáo Chủ đối với chúng sanh, nhứt là hàng môn nhơn đệ tử trực tiếp đặt mình dưới sự lãnh đạo của Ngài mới hiểu ý nghĩa việc Ngài thành lập Bộ đội Nguyễn Trung Trực.

Không dùng danh từ nào khác, lại dùng danh nghĩa Nguyễn Trung Trực đặt tên cho Bộ đội do Ngài đích thân sáng lập, đủ thấy lòng yêu nước và ý chí chống xâm lăng của Ngài thật là nồng nàn cương quyết.

Nguyễn Trung Trực là một vị anh hùng dân tộc lưu danh trong lịch sử kháng chiến chống Pháp với chiến thuật du kích ở miền Nam. Xuất thân là một nông dân áo vải, sôi lòng vì quốc phá gia vong, trước cảnh điêu linh của non sông đất nước, cảnh huống thống khổ của đồng bào, ông tự thấy có bổn phận đứng ra đánh đuổi bọn tham tàn cướp nước, cứu lấy non sông khỏi ách xích xiềng nô lệ.

Ðối với súng đồng tàu sắt tối tân của giặc, ông qui tụ nghĩa binh, phất cờ kháng Pháp và đã lập được hai kỳ công vĩ đại trong lịch sử chống xâm lăng. Ông đã dụng mưu đốt tàu Espérance của địch tại vàm Nhựt Tảo, điều mà từ trước đến nay chưa có vị anh hùng nào làm được. Kỳ công thứ hai là ông đã hạ được thành lũy Kiên Giang của Pháp cũng là điều mà người khác không tạo được thành tích oanh liệt như ông.

Do đó, cụ Huỳnh Mẫn Đạt đã ca tụng chiến công của ông trong hai câu đối liễn bất hủ:

Hỏa hồng Nhựt Tảo oanh thiên địa,
Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỉ thần.

Mặc dầu ông hùng dũng chiến đấu chống xâm lăng, nhưng chí người không xoay được vận nước, võ khí thô sơ không địch nổi chiến cụ tối tân của đại bác tàu đồng, tuy nhiên ông đã nêu được cho đời gương trung dũng chống bạo tàn và liều thân đền nợ nước.

Tuy không thành công, nhưng đã thành nhơn. Chính với tấm gương trung dũng nghĩa khí ấy mà Ðức Huỳnh Giáo Chủ đặt tên cho Bộ đội của Ngài lập ra là Bộ đội Nguyễn Trung Trực, với hoài bão cho môn nhơn đệ tử noi theo chí hướng của ông Nguyễn Trung Trực để thi thiết hạnh vô úy, hầu có lập thân danh, trở nên người hiền đức.

Sở dĩ dùng tên Nguyễn Trung Trực đặt tên cho Bộ đội, ngoài ý nghĩa nêu gương trung dũng khí tiết của vị anh hùng dân tộc, Ðức Huỳnh Giáo Chủ còn muốn nhắc nhở môn nhơn nhớ lấy vai trò cứu nước và dựng nước của Quan Thượng Đẳng Đại Thần trong giai đoạn hiện tại và vị lai.

Chức tước Thượng Đẳng Đại Thần là của Phật phong chớ không phải của vua chúa Việt Nam ban tứ, vì như được biết: (1) sau ngày bỏ xác, do hạnh Hiếu đối với mẹ và Nghĩa vụ đối với đất nước, ông Nguyễn Trung Trực được Phật ban chức Thượng Ðẳng Ðại Thần.
_________________________________________________
(1) Lời Đức Thầy nói với ông Huỳnh Hữu Phỉ

Ðể ghi nhớ sứ mạng cứu quốc và lập quốc của ông trong giai đoạn hiện tại và vị lai, Ðức Huỳnh Giáo Chủ đã tôn tri danh hiệu ông vào bài nguyện mà tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo phải khấn vái trong các thời lễ bái như sau:

“Nam Mô Phật Tổ, Phật Thầy, Quan Thượng Ðẳng Ðại Thần, Trăm Quan Cựu Thần…”
Quan Thượng Ðẳng Ðại Thần là danh hiệu và chức vị của ông Nguyễn Trung Trực. Cứ theo Ðức Huỳnh Giáo Chủ thì giai đoạn nầy là giai đoạn của Quan Thượng Ðẳng Ðại Thần hành sử quyền chỉ huy trong công cuộc cứu dân cứu nước, cho nên, ngộ như gặp phải hoạn nạn tai ương, nếu nguyện đến danh hiệu của Ngài thì sẽ được Ngài hộ độ.

Điều nầy đã được nhiều tín đồ nhìn nhận là đã ứng nghiệm trong nhiều trường hợp.
Danh hiệu Nguyễn Trung Trực mà Ðức Thầy đặt cho Bộ đội do Ngài thành lập thật không hổ danh là Bộ đội của Quan Đại Thần Thượng Đẳng.

Nhờ oai linh của Quan Thượng Đẳng tỳ hộ mà Bộ đội Nguyễn Trung Trực lập nhiều chiến công hiển hách trong công cuộc kháng chiến chống Pháp và binh sĩ dưới bóng cờ của Quan Thượng cũng đã làm rạng rỡ danh nghĩa chiến sĩ cách mạng, vì họ đã anh dũng chống Pháp, hy sinh xương máu bảo vệ quê hương, cùng sanh mạng tài sản của đồng bào, đúng với hạnh vô úy thí.

Với tôn chỉ dĩ đạo cứu quốc của giáo hệ Bửu Sơn Kỳ Hương, Ðức Huỳnh Giáo Chủ khi mở đạo, khai triển pháp môn Học Phật Tu Nhân, phát huy điều Tứ Ân Hiếu Nghĩa, hun đúc lòng yêu nước của hàng môn nhơn đệ tử. Nhờ vậy mà khi phong trào quật khởi của toàn dân đứng lên chống Pháp, toàn thể tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo đều tham gia kháng chiến, hăng say chiến đấu chống xâm lăng cứu nước.

Cuối năm 1945, khi thực dân tái chiếm Sài Gòn và các tỉnh miền Nam, Ðức Huỳnh Giáo Chủ thống hợp các lực lượng tự động võ trang đã có, tổ chức thành một lực lượng Dân quân Cách mạng kháng Pháp lấy tên là Nghĩa Quân Cách Mạng Vệ Quốc Liên đội Nguyễn Trung Trực. Liên đội ra đời gồm có 4 chi đội:

– Chi đội 1 do Trần văn Soái chỉ huy, hoạt động vùng Cần Thơ.
– Chi đội 2 do Lê Minh Điều (tức xã Nhiễu) chỉ huy, hoạt động vùng Long Xuyên.
– Chi đội 3 do Lê Phát Khuynh chỉ huy, hoạt động vùng Châu đốc.
– Chi đội 4 do Phan Hà chỉ huy, hoạt động vùng Rạch Giá.

Ðể kịp thời đối phó với tình hình nghiêm trọng của đất nước trước nạn Pháp xâm lăng, Ðức Huỳnh Giáo Chủ sắp xếp lại hàng ngũ cho được chỉ huy thống nhứt. Ngày 18-12-1946 Ngài cho triệu tập tại chiến khu Bình Hòa (Tân An) các cấp chỉ huy Nghĩa Quân Cách Mạng Vệ Quốc Liên đội Nguyễn Trung Trực, trong một đại hội Quân sự để cải tổ 4 Chi đội thành một Chi đội mạnh mẽ hơn mang danh là Chi đội Nguyễn Trung Trực Hậu Giang, với Ban chỉ huy như sau:

– Chi đội trưởng: Nguyễn Giác Ngộ.
– Chi đội phó kiêm Trưởng ban cơ khí: Lâm Thành Nguyên.
– Tham mưu trưởng kiêm Ủy viên chánh trị: Trần Ðức Thu (tức Luật sư Lê văn Thu).
– Tham mưu phó: Trương Kế Tự (tức giáo sư Trần Kiệt).

Chi đội Nguyễn Trung Trực Hậu Giang gồm có 3 Đại đội và 1 Phân đội biệt lập.

– Đại đội 1 do Trần Tín Nghĩa làm Đại đội trưởng, phụ trách vùng Cần Thơ, Vĩnh Long, Sóc Trăng và Bạc Liêu.
– Đại đội 2 do Ngô Trung Hưng (tức Lâm thế Xương) làm Đại đội trưởng, phụ trách vùng Long Xuyên, Sa Đéc và Đồng Tháp Mười.
– Đại đội 3 do Lê Hoài Nam làm Đại đội trưởng, phụ trách vùng Châu Đốc, khu vực Thất Sơn và ranh giới Cao Miên.
– Phân đội 4 biệt lập do Phan Hà làm Phân đội trưởng, phụ trách vùng Rạch Giá và Hà Tiên.

Lúc bấy giờ Lê Quang Vinh được Ðức Thầy để cử làm Phân đội trưởng phân đội 2 thuộc Đại đội 2/NTT Hậu Giang. Sau khi Chi đội Nguyễn Trung Trực Hậu Giang được cải tổ, Chi đội 1 của Trần văn Soái trong Liên đội, được cải thành Chi đội Lưu động số 2, còn Chi đội Nguyễn Trung Trực được gọi là Chi đội số 1.

Khi Ðức Huỳnh Giáo Chủ chấp nhận tham chánh với chức Ủy viên đặc biệt trong Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ, để biểu dương tinh thần đoàn kết quốc gia chống xâm lăng, Ngài đem Chi đội Nguyễn Trung Trực chánh thức hóa thành Chi đội 30 Vệ Quốc đoàn Việt Nam. Ban chỉ huy Chi đội 30 được Ðức Huỳnh Giáo Chủ giữ nguyên chức vụ và vùng hoạt động của các đại đội lệ thuộc cũng không thay đổi. Sau khi chánh thức hóa, Chi đội dưới sự chỉ huy của ông Nguyễn Giác Ngộ từ Côn đảo mới về và được Ðức Huỳnh Giáo Chủ để cử chấp chưởng binh quyền, tích cực tranh đấu và lập nhiều chiến công trong công cuộc hạ đồn Pháp và đoạt vũ khí của giặc.

Ðể làm hậu thuẫn cho Chi đội, về mặt vũ khí, một công binh xưởng được thiết lập tại Hiệp Xương, đúc khí giới và đạn dược, và về mặt tăng bổ hàng ngũ chiến binh, nhiều lớp huấn luyện về các cấp sĩ quan và hạ sĩ quan được khai giảng. Khóa huấn luyện đầu tiên đã mở vào cuối năm 1946 tại núi Dài vùng Thất Sơn, đào tạo cấp tốc 10.500 quân, do một Ban huấn luyện với sự hợp tác của 4 sĩ quan Nhựt Bổn cấp tá.

Công cuộc đang tiến triển đẹp đẽ và kế hoạch thành lập Liên khu Quốc gia đang bước sang giai đoạn thực hiện thì một tai biến xảy ra làm tan vỡ chương trình kế hoạch đã định. Đó là biến cố: Ðức Huỳnh Giáo Chủ thọ nạn tại Ðốc Vàng Hạ. Một tai nạn lớn lao chẳng những đối với khối Phật Giáo Hòa Hảo mà còn là một sự thiệt thòi to tát với hàng ngũ quốc gia.

Trước sự phản bội của Cộng sản, Chi đội 30 rút ra khỏi hàng ngũ Vệ Quốc đoàn Việt Nam và theo quyết định của Hội Nghị tối cao Quân Chính hợp tại Hòa Hảo liền sau khi Ðức Huỳnh Giáo Chủ thọ nạn, Chi đội 30 trao khí giới cho đoàn thể để võ trang Bộ đội Dân Xã và Bộ đội Phật Giáo Hòa Hảo hầu bảo vệ đoàn thể.

Cuối năm 1947, để đáp ứng với nhu cầu chiến đấu trong tình thế mới, một phiên họp khoáng đại Quân Chính triệu tập tại Hiệp Xương. Chi đội 30 được cải tổ thành Bộ đội Nguyễn Trung Trực với thành phần Ban chỉ huy tối cao như sau:

– Chỉ huy trưởng: Nguyễn Giác Ngộ.
– Chỉ huy phó: Lê Phát Khuynh.
– Chủ nhiệm chánh trị bộ kiêm Tham mưu trưởng: Trần Kiều.

Bộ đội Nguyễn Trung Trực gồm có 7 Chi đội võ trang:

– Chi đội phòng vệ do Nguyễn Minh Thành làm Chi đội trưởng.
– Chi đội 1 Hắc Long do Nguyễn Thành Tâm làm Chi đội trưởng.
– Chi đội 2 do Ngô Trung Hưng (tức Lâm Thế Xương) làm Chi đội trưởng.
– Chi đội 3 do Nguyễn Thiện Tri làm Chi đội trưởng.
– Chi đội 4 do Hoàng Minh Kính làm Chi đội trưởng.
– Chi đội 5 do Nguyễn văn Sáng làm Chi đội trưởng.
– Chi đội 6 do Bùi Thanh Liêm làm Chi đội trưởng.
– Chi đội 7 do Bùi Trung Cang làm Chi đội trưởng.

Bộ đội Nguyễn Trung Trực có trên 2 ngàn binh sĩ tại ngũ. Ngoài ra còn tổ chức Bảo An Quân (lực lượng bán quân sự) khắp các tỉnh Long Xuyên, Châu Đốc, Sa đéc, Rạch Giá, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Bến Tre… để giữ gìn an ninh trật tự trong thôn ấp và đồng thời làm kho cung cấp binh sĩ cho Bộ đội cũng như tiếp tế lương thực.

Ðể đào tạo chiến sĩ, nhiều khóa huấn luyện liên tục được mở ra. Không kể khóa huấn luyện tại núi Dài cuối năm 1946, sau đây là các khóa huấn luyện sau ngày cải tổ:

– Các khóa huấn luyện mở vào cuối năm 1947 tại Hiệp Xương, đào tạo cấp Đại đội trưởng.
– Các khóa huấn luyện cán bộ chánh trị viên mở tại chiến khu Ba Dầu (Long Xuyên) năm 1948.
– Các khóa huấn luyện mở vào đầu năm 1949 tại Mỹ Hội Đông đào tạo cấp Tiểu đội trưởng và Trung đội trưởng.
– Các khóa huấn luyện mở vào cuối năm 1949 tại Kiến An đào tạo cấp Trung đội trưởng và Đại đội trưởng.

Song song với chương trình huấn luyện binh sĩ, Bộ đội còn phái cán bộ lưu động đến các tỉnh, quận, huấn luyện quân sự căn bản cho các cán bộ và đội viên Bảo An Quân. Có tất cả 20.000 sĩ binh và 300.000 đội viên Bảo an Quân được huấn luyện.

Năm 1949 Thực dân Pháp tìm đủ cách khủng bố, bức ép Bộ đội phải ra hợp tác với quân đội Viễn Chinh Pháp, nhưng vì trung thành với lập trường quốc gia kháng chiến nên Bộ đội Nguyễn Trung Trực bị tấn công tới tấp bằng hải lục không quân, dồn ép phải rút về kinh Cựu Hội (Cái Tàu Thượng) địa giới giữa vùng Quốc gia và Cộng sản.

Mặc dầu bị đặt vào thế kẹp giữa hai gọng kềm Thực dân và Cộng sản, Bộ đội Nguyễn Trung Trực vẫn cương quyết giữ vững lập trường kháng chiến thà chịu cảnh cùng khốn thiếu đạn dược, thiếu vũ khí nhưng được nhân dân tiếp tế dồi dào, chớ không chịu chấp nhận điều kiện ra hợp tác với Thực dân.

Cuối cùng, chỉ còn một xuất lộ là Bộ đội Nguyễn Trung Trực ra hợp tác với Quốc Trưởng Bảo Đại để tạo thành phần đầu tiên của Quân đội Quốc Gia Việt Nam.

Và khi Quân đội Cộng Hòa thành hình, Bộ đội Nguyễn Trung Trực tổ chức thành hai Trung đoàn 57 và 63. Ðến năm 1955, Bộ đội Nguyễn Trung Trực hoàn tất việc hòa mình trọn vẹn trong đại gia đình Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Sĩ quan hay binh sĩ nào muốn tiếp tục binh nghiệp thì giữ cấp bực và phục vụ trong quân đội, còn anh em nào không muốn thì được tự do xin giải ngũ trở về vị trí tu hành của một tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo hay vị trí hoạt động chánh trị như một đảng viên trong Đảng Dân Xã. Thế là vai trò Bộ đội Nguyễn Trung Trực do Ðức Thầy sáng lập, đến đây chấm dứt một giai đoạn.

Có thể nói chấm dứt giai đoạn, chớ sứ mạng của Bộ đội Nguyễn Trung Trực hay vai trò của Quan Thượng Đẳng chưa kết liễu.

Cứ theo hai câu liễn do ông Thanh Sĩ viết, hiện treo tại đền thờ Quan Thượng Đẳng Đại Thần Nguyễn Trung Trực xã Long Kiến thì sứ mạng của Quan Thượng vẫn còn và sẽ đóng trong tương lai một vai trò vô cùng quan trọng trong công cuộc cứu đất nước khỏi nạn ngoại xâm và xây dựng một quốc gia Việt Nam thống nhứt làm rạng danh cho giống dân Hồng Lạc.

Hai câu liễn ấy như vầy:

Dĩ vãng ưu dân, Tiền Hậu giang thi quốc sự,
Đương lai hộ tộc, Nam Bắc địa khởi hùng binh.

Tạm dịch:
Trong quá khứ đã lo dân, sông Tiền sông Hậu thi hành việc nước,
Về tương lai sẽ ủng hộ dân tộc, đất Nam đất Bắc khởi cử binh hùng.
* * *

Nói tóm lại, sở dĩ Ðức Huỳnh Giáo Chủ thành lập Bộ đội Nguyễn Trung Trực là để chống xâm lăng, giành độc lập cho quê hương đất nước.

Đây là phương tiện cho môn nhơn đệ tử của Ngài noi theo gương hy sinh của Nguyễn Trung Trực, tham gia vào quân đội, phơi gan trải mật tranh đấu kháng chiến chống xâm lăng, hầu có thực hành hạnh vô úy để tạo lập thân danh có trở nên người hiền hội đủ điều kiện dự Hội Long Hoa và sống còn đời Thượng Nguơn an lạc.

Theo Ðức Huỳnh Giáo Chủ, lập quân đội hay tham gia vào hàng ngũ quân đội là để làm tròn nghĩa vụ đối với đất nước, một ân trọng trong Tứ đại Trọng Ấn.

Với Ngài, điều Nghĩa là quan trọng, phàm một tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, muốn thực hành đúng pháp môn Học Phật Tu Nhân, phải lo đền đáp trước nhứt. Ðó là nghĩa vụ của con dân đối với đất nước.
Còn theo ông Thanh Sĩ, Tu mà không làm việc Nghĩa, đạo mà thiếu Nghĩa hay bỏ Nghĩa là tu sai đường, hành không đúng lối:

Ðời càng lắm việc bất công,
Thì là việc nghĩa càng trông cậy nhiều.
Người càng giác ngộ bấy nhiêu,
Thì làm việc nghĩa thêm nhiều hơn xưa.
Kẻ cho mình bực đại Thừa,
Xem thường việc nghĩa là chưa đúng đường.
Nghĩa không kém tám Đại vương,
Nếu cho việc nghĩa tầm thường là sai.
Đạo cùng với Nghĩa không hai,
Chia hai Đạo Nghĩa là sai đường lành.
Ðạo mà có Nghĩa mới thành,

 

 

Chương XVI: Chánh-trị: Việt-Nam Dân-Chủ Xã-Hội Đảng [trở lại đầu trang]

Quan hệ giữa quân sự và chánh trị. – Clausewitz một nhà binh Pháp-Ðức, trong quyển “Chiến tranh luận” có định nghĩa chiến tranh như sau: Chiến tranh chẳng những là một hành động chánh trị (action politique) mà thực sự là một thủ đoạn của chánh sách, chánh sách kế tục quan hệ ngoại giao.

Cứ theo định nghĩa nầy, quân sự chỉ là một thủ đoạn để thực hiện chánh sách. Sở dĩ gây chiến hay dùng thủ đoạn quân sự là vì đôi bên không thể giải quyết bằng đường lối ôn hòa, ngoại giao chánh trị.

Quân sự hay chiến tranh, theo đó, chỉ là một thủ đoạn nhứt thời đem áp dụng trong một giai đoạn để thực hiện mục tiêu chánh trị hay quốc sách. Như thế, quân sự là tranh đấu giai đoạn còn chánh trị là tranh đấu trường kỳ, thường xuyên hay có thể nói chiến tranh hay quân sự là một thủ đoạn bạo lực để đạt đến mục đích chánh trị hay chánh sách.

Dùng quân sự hay chiến tranh để giải quyết một vấn đề gì là một việc làm bất đắc dĩ, bởi giải quyết nhau bằng phương pháp chánh trị ngoại giao không xong mới đưa đến sự giải quyết bằng bạo lực, bằng súng đạn.

Khi dùng đến bạo lực thì chi cho khỏi gây ra chết chóc sanh mạng, tàn phá sự nghiệp tài sản. Vì vậy mà loài người luôn luôn tìm cách giàn xếp bằng đường lối chánh trị hơn quân sự. Chỉ có những dân tộc bạo tàn, háo sát hung hãn, tham lam, nuôi óc cướp bóc mới ỷ thị vào sức mạnh để gây chiến tranh xâm lược hầu thỏa mãn dục vọng tham tàn, óc thích giết hại đồng loại với bản tính cầm thú.

Như trường hợp nước Việt Nam chúng ta, dân tộc Việt Nam là một dân tộc hiếu hòa nhưng luôn luôn bất khuất trước mọi áp bức bạo lực, sở dĩ phải dùng đến quân sự là để bảo vệ đất nước, chúng ta không còn phương pháp nào hơn dùng bạo lực để chống lại bạo lực. Nhưng một khi cường khấu rút lui thì dân chúng ta trở lại đời sống hòa bình và luôn luôn dùng lối ngọai giao khéo léo của một nước nhỏ để bảo vệ quê hương đối với nước lớn mạnh.

Ðức Huỳnh Giáo Chủ sở dĩ lập Bộ đội cũng không ngoài mục đích chống xâm lăng cứu nước. Đây là một thủ đoạn bất đắc dĩ phải dùng đến, vì không còn một thủ đọan nào hữu hiệu hơn khi mà đường lối chánh trị, ngoại giao trở thành vô hiệu hay bất lực đứng trước bạo lực.

Đó là một thủ đoạn áp dụng trong một giai đoạn cho nên ngoài sự thành lập Bộ đội chống xâm lăng, Ðức Huỳnh Giáo Chủ còn thành lập chánh đảng để tranh đấu thực hiện mục tiêu chánh trị, xây dựng nước Việt Nam “Công bình và nhơn đạo, một nước Việt Nam tương xứng với các nước dân chủ tiền tiến trên hoàn cầu”. Chánh trị, là mục tiêu, còn quân sự là phương tiện để đạt mục tiêu. Cho nên có thể ví chánh trị như địa bàn hay hải đăng, còn quân sự hay bộ đội như hướng, thiếu hải đăng rọi sáng ban đêm thì thuyền tàu chắc chắn phải lạc hướng và có thể rướng lên cồn hay va vào hòn, vào đảo mà vỡ mà chìm.

Một bộ đội mà thiếu chánh trị lãnh đạo thì bộ đội đó sẽ trở thành một đám lê dương chuyên nghề đánh mướn, bán máu lấy tiền hay một bộ đội lục lâm chuyên phản dân hại nước.

Mục đích cầm súng là để thực thi chánh sách hay kế hoạch chánh trị. Trong giai đoạn kháng chiến, cầm súng là để chống xâm lăng bảo vệ quê hương cùng sanh mạng tài sản của đồng bào.

Vì vậy mà một bộ đội cách mạng vẫn phải có kỷ cương. Không kỷ luật thì quân đội sẽ là một đám người ô hợp, chẳng những không thắng được địch, thực hiện mục đích chánh trị mà còn gây tai họa cho dân cho nước. Cho nên, đồng thời với sự thành lập bộ đội Ðức Huỳnh Giáo Chủ còn hợp với các nhà cách mạng yêu nước thành lập đảng chánh trị để lãnh đạo đường lối tranh đấu chống xâm lăng, giành độc lập.

Lý do lập Đảng Dân Xã. – Quân sự và chánh trị ví cũng như tay chân và bộ óc trong thân thể con người. Quân sự mà không chánh trị không khác thân thể có tay chân mà không có bộ óc. Không óc, con người sẽ hành động cuồng loạn.

Phương chi trong giai đoạn tranh đấu cứu nước và dựng nước, chánh trị thủ lấy một vai trò tối quan trọng cũng như bộ óc trong thân thể con người, không có không được. Ví như cuộc kháng chiến thành công nghĩa là đã dùng quân sự đánh đuổi xâm lăng, chẳng phải đến đó là chấm dứt; đây chỉ mới hoàn thành giai đoạn cứu nước, nhưng còn giai đoạn xây dựng đất nước hay tái thiết quốc gia.

Khi đặt ra vấn đề xây dựng đất nước là đặt ra vấn đề quốc sách để làm tiêu hướng cho phát triển quốc gia theo nhịp tiến thế giới hay nhơn loại. Và khi nói đến quốc sách là nói đến xu hướng chánh trị.

Một nước là một quốc gia gồm nhiều gia đình, nhiều từng lớp xã hội, đương nhiên có nhiều ý kiến không giống nhau, có khi trái nghịch nhau. Để giữ cho xã hội không rối loạn, những người cùng một xu hướng cùng một quyền lợi thường tập hợp nhau thành những đoàn thể đảng phái. Mỗi tập thể có những chương trình kiến thiết theo quan niệm xu hướng quyền lợi của mình. Đương nhiên giữa các chương trình có sự cạnh tranh nhau, thành thử có sự tiến bộ và luôn luôn tranh nhau cải thiện đời sống một ngày một tốt đẹp hơn.

Chánh đảng hay đảng chánh trị là một tổ chức biểu hiện một xu hướng chánh trị, phản ảnh xu hướng và quyền lợi của những người cùng tập hợp nhau thành đoàn thể. Cho được phù hợp với nguyện vọng tiến bộ của toàn dân hay đa số nhân dân, các chương trình kiến tạo phải tùy từng giai đoạn tiến hóa mà thay đổi. Nhờ vậy mà xã hội luôn luôn trên đà tiến triển không ngừng.

Bất cứ cuộc chiến tranh nào cũng phải có lúc chấm dứt. Chỉ có đấu tranh chánh trị thì không bao giờ dứt. Khi hoàn thành một kế sách chấm dứt một giai đoạn đấu tranh thì kế tiếp một kế sách mới đặt ra đòi hỏi một sự tranh đấu mới. Như vậy hành động chánh trị luôn luôn có tánh cách trường kỳ, cho nên lúc nào chánh trị cũng đóng lấy vai trò lãnh đạo soi sáng cho quân sự có tánh cách đoản kỳ hay giai đoạn.

Đó là lý do khiến Ðức Huỳnh Giáo Chủ thành lập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng.
Miền Nam cần có một Đảng chánh trị. – Vì nhu cầu cần có một đảng chánh trị để lãnh đạo tranh đấu chống xâm lăng và kiến thiết quốc gia khi phục hồi nền độc lập, Ðức Huỳnh Giáo Chủ hiệp với các nhà ái quốc thành lập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng gọi tắt là Dân Xã đảng.

Ðảng Dân Xã là một chánh đảng gồm nhiều thanh phần nhưng trụ cột là thành phần đông đảo nhứt là khối Phật Giáo Hòa Hảo và Việt Nam Quốc Gia Độc Lập đảng, một đàng có khối quần chúng nông dân đông đảo còn một đàng có một giàn cán bộ được huấn luyện.

Xét ra trong hiện tình đất nước, các tôn giáo cũng như đảng phái ở miền Nam chưa có thể đóng lấy vai trò lãnh đạo đấu tranh chánh trị chống xâm lăng. Các tôn giáo thì không thể trực tiếp đứng ra tranh đấu vì vấp phải luật nghi ràng buộc, không cho phép bước ra ngoài phạm vi của kẻ tu hành, còn về đảng chánh trị thì ở miền Nam chỉ có Mặt Trận Việt Minh đã mang tiếng là bị Cộng sản lung lạc, mất cả sự ủng hộ trong nước và ngoài nước, đến như Việt Nam Quốc Gia Độc Lập Đảng, một đảng chánh trị duy nhứt ở miền Nam thì lại quá yếu vì thiếu hậu thuẫn quần chúng. Vì sự nhu cầu của tình thế, miền Nam cần có một lực lượng lãnh đạo kháng chiến và kiến thiết quốc gia khi nền độc lập được khôi phục.

Sự thành lập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng thống hợp hai khối: Phật Giáo Hòa Hảo (Tôn giáo) và Việt Nam Quốc Gia Độc Lập Đảng (chánh trị) cùng một số đoàn thể: thanh niên, cần lao, kháng chiến thành một lực lượng chánh trị đủ khả năng đóng lấy vai trò lãnh đạo quốc gia trên lập trường dân tộc.

Ðảng Dân Xã chẳng những cần thiết trong giai đoạn tranh đấu chống xâm lăng giành độc lập mà còn cần thiết trong giai đoạn kiến tạo quốc gia giữa hai chủ nghĩa cực đoan: Tư bản và Cộng sản đang tranh giành ảnh hưởng trên bàn cờ quốc tế. Nếu đứng trên phương diện phúc lợi của nhân dân mà xét thì mỗi chủ nghĩa đều có ưu điểm và nhược điểm.

Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, con người được giải phóng về đời sống tinh thần, được hưởng mọi quyền tự do dân chủ. Nhưng cũng vì tự do quá trớn mà hạng giàu, hạng tư bản được tự do bóc lột hạng nghèo khó, công nhơn lao động. Khiến cho hạng thiếu phương thức sanh sản phải nghèo khổ, thất nghiệp chịu đói chịu khát.

Ðến như chế độ cộng sản, mặc dầu về đời sống không có cảnh thất nghiệp nhưng cũng bị bóc lột sức lao động, bị tước đoạt tài sản. Ngoài ra còn bị đàn áp về mặt tinh thần. Trong chế độ Cộng sản không có danh từ tự do, dù là tự do suy nghĩ, nghĩ khác hay nói khác hơn những mạng lịnh của chánh quyền là bị tù đày, bị thủ tiêu.

Nếu đem so sánh hai chế độ, người ta có thể nói, trong chế độ tư bản, con người được hoàn toàn tự do về mặt tinh thần, nhưng bị bóc lột về đời sống vật chất; còn trong chế độ Cộng sản thì con người được phần nào đảm bảo về đời sống xã hội nhưng hoàn toàn bị bóp nghẹt về phương diện tinh thần. Thành thử con người, sống trong chế độ nào, tư bản hay Cộng sản, vẫn thấy thống khổ, khổ về đời sống vật chất, khổ về đời sống tinh thần.

Sau đệ nhị thế chiến, loài người sống giữa hai sự tranh chấp của hai chế độ cực hóa, luôn luôn chực biến con người thành những bộ máy sản xuất và trong tương lai có thể đưa loài người đến vực thẳm diệt vong, nếu những tâm hồn cuồng loạn vì tham vọng đen tối không chịu thức tỉnh, trở lại bản tánh nhân thiện mà dẹp bỏ các thứ võ khí sát nhân.

Ðứng giữa hai chế độ cực hóa, loài người chỉ còn một xuất lộ, vừa giải phóng con người về phương diện đời sống vật chất và tinh thần, đồng thời đem lại một đời sống quân bình hạnh phúc. Đó là chủ nghĩa Dân Chủ Xã Hội, một chủ nghĩa “trung hóa” nghĩa là đứng giữa hai cực đoan, hóa giải thành một chủ nghĩa quân bình, giải phóng con người cả hai phương diện. Với chủ nghĩa dân chủ trong Dân Chủ Xã Hội, con người sẽ được hoàn toàn tự do về mặt vật chất cũng như tâm linh.

Với chủ nghĩa xã hội trong Dân Chủ Xã Hội, đời sống con người sẽ được đảm bảo: không còn sự chinh lệch quá xa giữa hạng giàu và hạng nghèo. Ai ai cũng được đảm bảo về nhà ở, công ăn việc làm. Mỗi gia đình đều có một mái nhà, nhà nông có ruộng, người thợ có nghề và các công cụ cần thiết cho nghề nghiệp.

Xã hội Dân Xã có thể gọi là quân bình nhứt trong đó mọi người đều sống một đời hoàn toàn an lạc.
Ðảng Dân Xã chẳng những cần thiết trong giai đoạn kháng chiến chống xâm lăng mà còn cần thiết trong giai đoạn xây dựng quốc gia khi Việt Nam độc lập. Hiện nay có nhiều nước đang tiến trên con đường dân chủ xã hội. Trong tương lai, sự giải thể hai chủ nghĩa tư bản và cộng sản sẽ đưa nhơn loại đến một chủ nghĩa quân bình an lạc, phù hợp với con người hoàn toàn giải phóng. Đó là chủ nghĩa Dân Chủ Xã Hội.

Cho nên sự thành lập Đảng Dân Xã chẳng những đáp ứng được nhu cầu cứu nước mà còn phù hợp với trào lưu tiến hóa nhơn loại trên bước đường tương lai tiến đến một xã hội quân bình an lạc chủ nghĩa Dân Chủ Xã Hội.

Ðức Huỳnh Giáo Chủ, là một bực tiên giác, tiên liệu được thời cuộc và bước tiến của nhơn loại, nên chủ trương thành lập một chánh đảng lấy tên là Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng. Ngài đã giải thích lý do tại đâu chấp nhận thành lập đảng Dân Xã và dùng đảng nầy làm lợi khí tranh đấu thay vì dùng tôn giáo. Ngài có nêu ra ba lý do sau đây để đáp lại câu hỏi của một tín đồ (1):

“1. Việt Minh tranh đấu chánh trị. Nếu Thầy đem đạo ra tranh đấu thì không thể được, vì đạo chỉ lo tu hành chơn chất, nên Thầy phải tổ chức Đảng chánh trị mới đủ điều kiện để tranh đương kịp.

“2. Các nhà ái quốc chơn chánh trong nước mặc dù nhìn nhận Thầy là nhà ái quốc chơn chánh, nhưng không thể hiệp chung với Thầy lo việc quốc gia, bởi lẽ anh em ấy không thể tu hành như mình, hoặc giả đã có đạo rồi thì không lẽ bỏ đạo mà qui y theo Phật Giáo Hòa Hảo, vì vậy Thầy phải tổ chức đảng chánh trị để anh em ấy có điều kiện tham gia vì rằng tham gia, họ chỉ giữ kỷ luật của đảng mà thôi, còn tôn giáo thì của ai nấy giữ.

“3. Tất cả anh em tín đồ nếu thấy mình còn nặng nợ với non sông tổ quốc, thương nước thương dân hãy tham gia mà tranh đấu. Ðây là phương tiện để anh em tín đồ hành sử Tứ Ân”. (2)

__________________________________________________________
CHÚ THÍCH
(1) ông Huỳnh Hữu Phỉ.
(2) Hành sử đạo nhân. Tr. 140.

Ðảng Dân Xã không phải Phật Giáo Hòa Hảo đổi tên. – Ðể đánh tan dư luận thấy khối tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo tham gia đông đảo vào Đảng Dân Xã, nên cho rằng đảng Dân Xã là Phật Giáo Hòa Hảo trá hình, Ðức Huỳnh Giáo Chủ đã cực lực đính chánh điều ngộ nhận ấy trong bài minh xác trên báo Quần Chúng ngày 15-11-1946 như sau:

“1. Ðảng Việt Nam Dân Chủ Xã Hội là một đảng chánh trị, có tuyên ngôn, chương trình, điều lệ rõ ràng do mấy nhóm chánh trị, đoàn thể kháng chiến hay anh em trong các tôn giáo mà hoạt động chánh trị hợp lại thành lập. Thế thì không phải Phật Giáo Hòa Hảo đổi tên.

“2. Sở dĩ tôi nhân danh mà kêu gọi anh em Hậu Giang là vì về dĩ vãng mặc dù tôi ở trong địa hạt Phật giáo, nhưng có quyền riêng là gia nhập Việt Nam Dân Xã, nó hợp với quan niệm tranh đấu chánh trị của tôi. Cái quyền nhập đảng ấy, anh em Công giáo, Cao đài, Tịnh độ cư sĩ vẫn có cũng như tôi. Hiện nay tôi là đảng viên của đảng Dân Chủ Xã Hội và có rất nhiều anh em ở Hậu giang cũng đã vào đảng Dân Xã. Khi đã vào đảng đều tuân kỷ luật của đảng trong sự hoạt động chánh trị. Như vậy cũng rõ rệt rằng Phật Giáo Hòa Hảo và đảng Dân Xã là hai tổ chức khác nhau, Tôn giáo là Tôn giáo mà Chánh trị là Chánh trị”. (3)

___________________________
(3).Hành sử đạo nhân. Tr. 144.
Một điều nữa chứng tỏ đảng Dân Xã không phải Phật Giáo Hòa Hảo đổi tên là việc thành lập Ban Chấp Hành Trung Ương mà những chức vụ quan trọng đều giao phó cho anh em Việt Nam Quốc Gia Ðộc Lập Đảng, nhứt là trường hợp anh Nguyễn Bảo Toàn được Ðức Huỳnh Giáo Chủ cử giữ chức vụ Tổng Bí Thơ trong Trung Ương đảng Bộ. Anh thuộc gia đình Thiên Chúa Giáo, thế mà anh được đề cử là vì hai lý do sau đây:

a)- Trước nhứt anh chủ trương tờ nhựt báo Dân Mới, nổi tiếng chống Pháp nên bị Tòa đại hình kêu án 5 năm khổ sai đày đi Côn Đảo. Đến năm 1944 mãn tù, anh bị quản thúc tại Mặc Bắc (Trà Vinh) quê quán anh cho đến ngày Nhựt đảo chánh. Anh hiệp với Nguyễn văn Sâm, Hồ văn Ngà, Phan Khắc Sửu… thành lập Việt Nam Quốc Gia Độc Lập Đảng, trong đó anh giữ chức vụ Tổng Bí Thơ, nhờ thành tích đi Côn đảo. Chính với thành tích nầy Ðức Thầy đề cử anh giữ chức Tổng Bí Thơ Trung Ương Đảng Bộ Đảng Dân Xã, cũng như ông Nguyễn Giác Ngộ được Ðức Thầy đề cử giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Chi đội Nguyễn Trung Trực cũng do ba năm Côn đảo của ông. Như thế Ðức thầy chọn người lãnh đạo là tùy ở thành tích chớ không dựa vào tình cảm hay tôn giáo. Việc đề cử anh Nguyễn Bảo Toàn vào chức vụ Tổng Bí Thơ đủ nói lên tinh thần trọng dụng nhân tài, đặt quyền lợi quốc gia trên tình nghĩa bè phái.

b)- Đề cử anh Nguyễn Bảo Toàn thuộc gia đình Thiên Chúa Giáo mà không đề cử tín đồ Phật Giáo như ông Nguyễn văn Sâm, Trần văn Ân hay tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo như bác sĩ Trần văn Tâm là để minh xác đảng Dân Xã không phải là Phật Giáo Hòa Hảo trá hình hay đổi tên, mặc dầu đa số đảng viên là khối tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo.

Diễn tiến của Đảng Dân Xã. – Với ý định thành Liên khu Quốc gia, để làm thế mạnh bên ngoài, Ðức Thầy phái ông Nguyễn Hoàn Bích tức Nguyễn Bảo Toàn sang Trung Hoa hiệp với các nhà cách mạng lưu vong thành lập Mặt Trận Toàn Quốc và để làm thế ủng hộ bên trong, Ngài phái ông Lê văn Thu về miền Tây mở lớp huấn luyện cán bộ chánh trị và xúc tiến việc đặt cơ sở khắp nơi.

Cuối năm 1946, tình hình trở nên khó khăn, do sự phản ứng của nhân dân chống lại sự khủng bố ráo riết của Pháp. Đường sá bị phá, sự lưu thông bị gián đoạn nhiều nơi. Vì vậy sự liên lạc giữa Trung Ương với các Bộ đội tác chiến cũng như cơ quan chánh trị ở miền Tây bị cắt đứt. Một phúc trình hoặc đề nghị từ miền Tây chuyển lên Trung Ương mất nhiều thời giờ, rất trở ngại cho công việc hoạt động quân sự và chánh trị.

Cho nên cuối 1946, một hội nghị quân chính được triệu tập tại Hiệp Xương. Về phía quân sự thì có Ban chỉ huy Bộ đội Nguyễn Trung Trực, còn về phía chánh trị thì đại diện các Ban Chấp Hành Tỉnh Bộ. Ðức ông được mời tham dự với tư cách cố vấn.

Ðể tiện việc hoạt động kịp thời ứng phó với tình thế, hội nghị đồng chấp nhận một kiến nghị yêu cầu Trung Ương sớm thành lập một Ban chỉ huy Quân chính miền Tây để trực tiếp lãnh đạo sanh hoạt quân sự và chánh trị.

Vào đầu năm 1947, Trung Ương có phái về 3 vị: Lê văn Kinh (tức Lương Trọng Tường), Ngô văn Hai (tức Nguyễn xuân Tăng) và ông Sơn (tức Lâm ngọc Thạch) về miền Tây đứng ra triệu tập một phiên họp tại Cái Gút, xã Nhơn Mỹ để thành lập Ban Chấp Hành Liên Tỉnh miền Tây.

Theo đề nghị thì xin lập Ban chỉ huy Quân chính, Ban chỉ huy viết tắt BCH có thể hiểu là Ban Chấp Hành?

Ban Chấp Hành Liên Tỉnh. – Phiên họp gồm có 3 vị của Trung Ương phái về, ông Lê văn Thu lúc bấy giờ là Giám đốc khóa huấn luyện chánh trị tại Nhơn Mỹ, ông Mai văn Dậu, nhơn viên trong Ban Hòa Giải và đại diện các Ban chấp hành Tỉnh bộ.

Mở đầu phiên họp, ông Lê văn Kinh trình Ủy nhiệm thơ của Trung Ương, đặc phái ba ông về Hậu giang thành lập Ban chấp hành Liên Tỉnh miền Tây, với hình thức Ban Thường Vụ như sau:

– 1 Trưởng ban
– 1 Tổng Bí Thơ
– 1 Ủy viên Tài chánh

Ðại diện Tỉnh bộ Châu đốc liền đưa ra nhận xét hình thức tổ chức ấy không thấy ấn định trong điều lệ của đảng và nếu tổ chức theo hình đó thì phá vỡ tổ chức cũ từ tỉnh xuống đến xã ấp. Như thế là làm xáo trộn cả bộ máy đảng trong Tỉnh Châu đốc.

Ông Kinh khẳng định rằng: ông được Ủy viên đặc biệt (Ðức Thầy), đồng thời cũng là sáng lập viên và Ủy viên Trung ương, đã ủy nhiệm thì ông có toàn quyền tổ chức. Trước Ủy nhiệm thơ của Ðức Thầy, các cử tọa đều im lặng.

Nhưng đại diện Tỉnh bộ Châu đốc có đưa ra nhận xét là hình thức tổ chức ấy không được ổn bởi lẽ, nếu có chức Tổng Bí Thơ thì không có chức Trưởng Ban, vì đó là hình thức tổ chức của một Chánh đảng. Còn nếu có chức Trưởng Ban thì không thể có chức Tổng Bí Thơ, bởi đây là hình thức tổ chức của hiệp hội. Nếu tổ chức theo hiệp hội thì gọi là Tổng thơ ký.

Ông Ngô văn Hai yêu cầu định nghĩa và phân biệt thế nào là Tổng Bí Thơ và thế nào là Tổng Thơ Ký.

Ðại diện Tỉnh bộ Châu đốc liền phân tách: Tổng Bí Thơ là chức vụ chưởng quản các Bí Thơ, một chức vụ tối quan trọng trong đảng, vì người sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm với cấp trên và giữ bí mật các văn kiện mật. Còn Tổng Thơ Ký chỉ có phận sự làm công việc văn phòng của một Ban Thường Vụ mà thôi.

Vả lại với hình thức của tổ chức hiệp hội, từ chức vụ Trưởng Ban cho đến Tổng Thơ Ký trong Ban Thường vụ đều liên đới chịu trách nhiệm và mọi huấn lịnh, chỉ thị đều đem ra thảo luận chung, khác hơn hình thức tổ chức đảng, chức vụ Tổng Bí Thơ hay Bí Thơ chịu hoàn toàn trách nhiệm và giữ mật mọi việc quan trọng.

Sau khi nghe trình bày, ông Lê văn Kinh cũng như ông Ngô văn Hai đồng chấp nhận đổi danh từ Tổng Bí Thơ lại Tổng Thơ Ký. Dầu vậy, đại diện Tỉnh bộ Châu đốc cũng kháng nghị rằng hình thức tổ chức hiệp hội trái nghịch với điều lệ và làm xáo trộn bộ máy tổ chức cũ.

Ông Lê văn Thu yêu cầu ghi lời kháng nghị của Tỉnh Châu đốc vào biên bản để trình lên Trung Ương quyết định tối hậu.

Vào đầu tháng 2 năm 1947, Ðức Thầy di chuyển về miền Tây, đặt văn phòng tại Hành dinh của Chi đội 30 ở xã Phú Thành, có lẽ đọc biên bản nên có cho vời nhân viên Ban chấp hành Tỉnh bộ Châu đốc đến.

Sau khi nghe trình bày, Ngài có nói: Tuy tôi là Ủy viên Trung Ương cũng là sáng lập viên đảng Dân Xã, vẫn không có quyển sửa đổi điều lệ. Quyền ấy phải dành cho đại hội toàn quốc, một năm được triệu tập một lần, mới có quyền sửa đổi mà thôi. Như vậy ông Kinh đã làm sai nguyên tắc. Nói đoạn, Ngài xoay qua ra lịnh cho văn phòng viết thơ mời gấp Ban chấp hành Liên Tỉnh (4).
____________________________________________
(4) Nghe đâu, sau đó Liên tỉnh có đến và theo lời của nhiều nhân viên văn phòng thuật lại, Ðức Thầy thâu hồi giấy ủy nhiệm của ông Kinh và ra lịnh cho Sáu Rớt (tức đại tá Trần văn Tươi) đưa ông Kinh về Sài Gòn. Chừng như Sáu Rớt vì bận việc lo chuyên chở thuốc men nên có hẹn với Ðức Thầy để hoãn lại một ngày khác.

Mấy hôm sau đó, Ðức Thầy ngộ nạn. Thế rồi Ban chấp hành Liên tỉnh cứ tiếp tục hoạt động theo hình thức tổ chức mới và ra lịnh cho các cấp bộ lệ thuộc cùng cải tổ theo.

Về hình thức, thế là Ðảng Dân Xã đã thay đổi mà về tinh thần, đảng cũng trải qua một cuộc biến cải hay lột xác, từ địa vị lãnh đạo chánh trị đã biến thành một tổ chức lệ thuộc quân sự, đóng lấy vai trò tiếp tế, cung phụng vừa tiền bạc vừa quân nhu thực phẩm cho quân đội mà thôi.

Các nhà ái quốc trí thức theo Ðức Thầy về miền Tây để phục vụ đảng, hoặc đào tạo cán bộ hoặc chuẩn bị ra báo, nhận thấy đảng Dân Xã đã biến thể nên không còn lý do để phục vụ, lần lượt rút lui về Sài Gòn. Trong số đó được biết: Luật sư Lê văn Thu, nhà văn Nguyễn Duy Linh, các giáo sư Huế Ðiền, Võ văn Lượm…

Về phương diện chánh trị đã thế mà về phương diện quân sự, vì sự bức bách của tình thế cũng có chỗ đổi thay. Để đáp ứng với tình thế mới Bộ đội Phật Giáo Hòa Hảo ra đời. Thừa cơ hội Ðức Thầy vắng mặt, Thực dân cũng như Cộng sản tăng gia tấn công và khủng bố.

Cờ Ba Sao. – Vào khoảng tháng 7 năm 1947, trong một trận đánh tại vùng Láng Linh, vì thiếu quân kỳ nên Bộ đội Dân Xã bị thiệt hại nặng. Có một số sĩ quan như Cò Trình, Cờ No… tử trận.

Ông Lâm Thành Nguyên đến báo cáo với Ban Chấp Hành Liên Tỉnh lúc bấy giờ đóng tại xã Hưng Nhơn, nguyên nhân của sự tổn thất và yêu cầu Liên tỉnh tạo cho lá quân kỳ. Sau khi thảo luận, lá cờ vàng với một ngôi sao đỏ được đưa ra, có ý đối chọi lại cờ VM, nền đỏ một ngôi sao vàng.

Lá cờ nầy không được chấp nhận, vì lẽ nó không khác lá cờ của Thanh Niên Tiền Phong. Do đó, lá cờ được thêm hai ngôi sao nữa nghĩa là thành lá cờ nền vàng ba ngôi sao đỏ.

Ban Chấp Hành Liên Tỉnh có yêu cầu các cấp cho ý kiến và giải thích ý nghĩa để chọn lựa. Có nhiều ý kiến được đưa ra. Người thì giải rằng: nền vàng là màu tượng trưng cho quốc gia Việt Nam, còn ba sao là tượng trưng cho ba kỳ: Nam, Trung, Bắc hoặc

– Tam dân chủ nghĩa: Dân tộc, Dân quyền, Dân sanh.
– Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng.
– Tam tài: Thiên, Địa, Nhơn.

Cuối năm 1947, một cái tang đưa đến cho Đảng Dân Xã: ông Nguyễn văn Sâm, Ủy viên Trung Ương đặc trách Ngoại giao và đồng thời cũng là đại diện cho Mặt Trận Toàn Quốc tại miền Nam bị ám sát tại Chợ Lớn (10-10-1947).

Tiếp theo đó, bác sĩ Trần văn Tâm, Ủy viên Trung Ương đặc trách Tài chánh, cũng bị ám sát.

Thế là sự liện lạc giữa Trung Ương đảng bộ với Ban Chấp Hành Liên Tỉnh đã lỏng lẻo từ sau ngày Ðức Thầy ngộ nạn, nay thì đứt hẳn. Từ biến hình, Đảng Dân Xã đến đây mất luôn lãnh đạo và dần dần lột xác biến thành một đảng Hòa Hảo.

Trong lúc mất lãnh đạo, lại thêm dồn dập bị Pháp tấn công khủng bố, bắt bớ cán bộ, cũng như làm tê liệt các cơ quan tỉnh, quận, xã, cố dồn ép Đảng Dân Xã hoặc tan rã, hoặc liên minh với Pháp chống Cộng.

Vì giữ vững lập trường kháng chiến nên đảng bị khủng bố đến tê liệt.

Ðầu năm 1948, một phiên họp được triệu tập tại chùa Cây Xanh ở Cái Tắc, Ban chấp hành Liên Tỉnh tuyên bố đình chỉ công tác. Thế là các cán bộ phải hoặc rút vào vị trí bí mật, hoặc chui vào các lực lượng võ trang để tiếp tục tranh đấu quân sự.

Ðảng Dân Xã Ba Sao. – Năm 1954, nhân đem quân ra hợp tác với quân đội quốc gia, Đại tá Lê Quang Vinh tức Ba Cụt, cho hợp thức hóa Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng với đảng kỳ nền vàng ba ngôi sao đỏ dụm lại (5), do Nghị định số 91-BNV/CT ngày 14-5-1954. Kịp khi Hiệp định Geneve ra đời (20-7-1954), Đại tá Lê Quang Vinh kéo toàn quân và Đảng Dân Xã vào bưng biền chống lại sự qua phân lãnh thổ Việt Nam do âm mưu của Thực dân và Cộng sản, cho đến ngày chế độ độc tài gia đình trị của Ngô đình Diệm bị lật đổ.

Sau khi đảng rút vào bưng, Ngô đình Diệm ban hành Nghị định số 41-NV ngày 27-1-1955 thâu hồi Nghị định số 91-BNV/CT ngày 14-5-1954 cấm Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng với lá cờ nền vàng ba sao đỏ hoạt động.
________________________________________
(5) Khi mới ra đời ba sao xếp theo hình vòng cung chớ không dụm lại.
* * *

Nhắc lại Nguyễn Hoàn Bích tức Nguyễn Bảo Toàn Tổng Bí Thơ của đảng được Ðức Huỳnh Giáo Chủ để cử đại diện đảng và Phật Giáo Hòa Hảo sang Trung Hoa hiệp với các nhà cách mạng lưu vong thành lập Mặt Trận Toàn Quốc với mục đích xây dựng một thế quốc gia. Nhưng vì công dân Vĩnh Thụy lại nghe theo ý kiến của Pháp, chịu trở về nước với danh nghĩa Quốc Trưởng Bảo Đại nên nhiệm vụ của Mặt Trận bất thành trong công cuộc xây dựng thế quốc gia bên ngoài làm hậu thuẫn cho Liên khu Quốc gia kháng chiến bên trong. Liền sau đó Ðức Huỳnh Giáo Chủ ngộ nạn, rồi vài tháng sau ông Nguyễn văn Sâm bị ám sát.

Ðầu năm 1948, Nguyễn Bảo Toàn trở về nước, gặp phải hoàn cảnh vô cùng bất lợi. Một mặt cơ sở Trung Ương không còn, một mặt tánh mạng bị đe dọa nên buộc lòng phải xuất ngoại sang Ấu Châu, sống với nghề mở lớp hàm thụ dạy chánh trị.

Đảng Dân Xã Chữ Vạn.- Khi Hiệp định Giơ-neo ký kết, một khúc quanh lịch sử đưa đến cho đất nước Việt Nam. Để kịp ứng phó với tình thế, trong giai đoạn hoạt động quân sự nhường chỗ cho hoạt động chánh trị, anh Nguyễn Bảo Toàn trở về nước đầu năm 1955. Với sự tán trợ của tướng Nguyễn Giác ngộ, một phiên họp được triệu tập tại số 204 đường Yên Đỗ, Sài Gòn. Hiện diện trong phiên họp có quý vị cựu Ủy viên Trung Ương như: Nguyễn Bảo Toàn, Lê văn Thu, Lâm văn Tết, La văn Thuận với các vị cựu Bí thơ Ban chấp hành Tỉnh bộ Châu Đốc, Long Xuyên, Sa đéc…Ngoài ra có quí ông Mai văn Dậu, tướng Nguyễn Giác Ngộ và nhân viên Ban chỉ huy Bộ đội Nguyễn Trung Trực… Sau khi xét qua tình hình quốc tế và quốc nội, hội nghị đồng đi đến quyết định tái phát Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng. Xét về phương diện pháp lý cũng như nguyên tắc tổ chức, Trung Ương Đảng Bộ hội đủ điều kiện để tái lập, vì rằng gồm quá bán Ủy viên Trung Ương cũ có mặt, cộng thêm một số cựu Bí Thơ Ban Chấp hành Tỉnh bộ và một số cán bộ cao cấp có uy tín trong đoàn thể như ông Mai văn Dậu, nguyên Đổng lý văn phòng của Ngài Ủy viên Đặc biệt và tướng Nguyễn giác Ngộ Chỉ huy trưởng Bộ đội Nguyễn Trung Trực.

Thề theo quyết định của phiên họp, một Ban trị sự lâm thời được ủy nhiệm đứng đơn xin hợp thức hóa đúng theo luật lệ hiện hành. Nhưng chánh quyền Ngô Đình Diệm từ chối, viện lẽ Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng cũng như lá cờ nền vàng ba ngôi sao đỏ đã bị Nghị định số 41-NV ngày 27-1-1955 cấm hoạt động và yêu cầu Ban trị sự đổi lại danh xưng và lá đảng kỳ khác.

Bất đắc dĩ, Ban trị sự phải sửa lại Đảng Dân chủ Xã hội Việt Nam, thay vì theo cú pháp Hán (V.N.D.C.X.H.Đ.) sửa lại theo cú pháp Việt (Đ.D.C.X.H.V.N.) tuy về cú pháp có thay đổi Hán ra Việt, nhưng nội dung (Dân chũ Xã hội) vẫn không thay đổi.

Và để phân biệt lá cờ nền vàng ba ngôi sao đỏ của Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng bị cấm hoạt động. Đảng Dân chủa Xã hội Việt Nam đưa ra mẫu cờ mới với nền đỏ chữ Vạn vàng, với ý nghĩa: Màu đỏ là màu tranh đấu, đại đồng; chữ Vạn tượng trưng cho Từ bi, nhà Phật. Lá đảng kỳ nầy còn biểu tượng cho khối PGHH vì màu đỏ là màu của Trần điều, màu mà tín đồ thờ nơi ngôi Tam bảo và chữ Vạn là biểu trưng cho Phật giáo. Như vậy, lá cờ nền đỏ chữ Vạn có thể tượng trưng cho Phật giáo (chữ Vạn) Hoà Hảo (màu đỏ = trần điều).

Đảng Dân chủ Xã hội Việt Nam với lá đảng kỳ màu đỏ chữ Vạn vàng được hợp thức hóa cho Nghị định số 5-BNV/ CT ngày 9-2-1955.

Khi Hội đồng Nhân dân Cách Mạng được thành lập, ông Nguyễn Bảo Toàn được bầu làm Chủ tịch Hội đồng, tranh đấu chấm dứt chế độ Quân chủ để thiết lập chế độ Cộng Hòa, đúng với chương trình của Đảng Dân Xã ấn định.

Nhưng khi Ngô Đình Diện được bầu làm Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa thì phản bội quốc dân, thực thi chế độ độc tài gia đình trị, thẳng tay đàn áp các đảng phái quốc gia.

Trong đêm 20-1-1956, Chủ tịch Nguyễn Bảo Toàn mở cuộc họp báo tại Trụ sở 204 đưởng Yên Đổ, đả kích và lên án chế độ độc tài của họ Ngô; sáng hôm sau (21-1-1956) anh lên đường sang Cao Miên rồi qua Mỹ, do đường Thái Lan ngang qua Nhựt Bổn.

Trong lúc anh Toàn xuất ngoại, Đảng tiếp tục hoạt động, rút vào vị trí bí mật, mở nhiều khóa huấn luyện cán bộ. Năm 1958, đảng họp với các đảng Quốc gia thành lập “Khối Dân chủ Đối lập” chống chế độ độc tài Nhu-Diệm.

Năm 1959 anh Toàn trở về nước, xúc tiến công việc đoàn kết các Đảng phái. Đến năm 1960, “Liên Minh Dân chủ” ra đời gồm có đại diện các đảng:

– Việt Nam Quốc dân đảng do Vũ hồng Khanh, Xuân Tùng đại diện.
– Đảng Dân chủ Xã hội Việt Nam do Nguyễn bảo Toàn, Phan bá Cầm đại diện.
– Đảng Duy Tân do Lê Vinh đại diện,
– Khối Dân chủ do Hoàng Cơ Thụy đại diện,
– Đảng Đại Việt do Nguyễn Đình Luyện đại diện,
– V.N. Phục quốc Đồng Minh do Lê văn Sáu đại diện.

Liên Minh làm đầu não cho cuộc đảo chánh ngày 11-11-1960 do Hoàng Cơ Thụy và Nguyễn Bảo Toàn liên kết với các Sĩ quan Dù. Cuộc quật khởi bất thành, một số cán bộ Dân Xã bị bắt, giam cầm, tù đày.

Trong cuộc tranh đấu chống chế độ Độc tài gia đình trị của họ Ngô, Đảng đã đóng góp rất nhiều xương máu. Ngoài những cán bộ bị tù đày, lưu vong và giam hãm ở các trại tập trung, còn có tướng Lê quang Vinh tức Ba Cụt lên đoạn lầu đài, Nguyễn Bảo Toàn và Phạm Xuân Gia tự Màng bị thủ tiêu trong ngục thất.

SAU CÁCH MẠNG 63. – Sau khi chế độ độc tài gia đình trị của họ Ngô bị lật đổ, các cán bộ Dân Xã bị tù đày lưu vong lần lượt trở về, xây dựng lại cơ sở Đảng đã bị phá vỡ. Các trụ sở được dựng lại, các Ban Chấp Hành được chỉnh đốn và cải tổ.

Vào khoảng nửa năm 1964, Trương Kim Cù từ Cao Miên về, bèn đứng đơn xin hợp thức hóa đảng Dân Xã và được Bộ Nôi Vụ cấp Nghị định số 1099-BNV/KS ngày 11-9-1964.
Thế là đảng Dân xã có đến 3 hệ phái:

– Hệ phái 3 sao của Trình Quốc Khánh.
– Hệ phái chữ Vạn của Phan Bá Cầm.
– Hệ phái 3 sao của Trương Kim Cù

Từ năm 1964, cuộc xáo trộn chính trị diễn ra trong nước. Tinh trạng rối reng, hỗn loạn càng ngày trầm trọng. Đất nước lâm vào tình trạng nhiễu nhương nguy khốn, đời sống dân chúng vô cùng đen tối điêu linh.

Ý thức vai trò chính trị của mình trước công cuộc cứu nguy đất nước, các hệ phái Dân Xã quyết thống nhứt nội bộ, nhưng lúc bây giờ điều kiện khách quan chưa thuận tiện. Chánh quyền chẳng thực tâm thực thi Dân chủ, cố ngăn cản sự thống nhứt, sợ các đảng phái Quốc gia lớn mạnh.

Mãi cho đến ngày 8-5-1966, trong Đại hội toàn quốc Phật Giáo Hòa Hảo họp tại Thánh địa Hòa Hảo, toàn thể Hội nghị đồng thanh biểu lộ ý chí thống nhứt. Kết quả là Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng thống nhứt ra đời với sự họp nhứt 5 hệ phái: Ba hệ phái chánh trị và hai hệ phái cựu quân nhân.

1-. Đảng Dân Xã 3 sao do Trình Quốc Khánh lãnh đạo,
2.- Đảng Dân Xã chữ Vạn do Phan Bá Cầm lãnh đạo,
3.- Đảng Dân Xã 3 sao do Trương Kim Cù lãnh đạo.
4.- Tập đoàn Cựu chiến sĩ HH/DX do Lâm Thành Nguyên lãnh đạo;
5.- Hội Cựu Quân Nhân PGHH do Trần Duy Đôn lãnh đạo,

Đảng Thống nhứt điều hành bởi một Chủ tịch Đoàn gồm có 5 nhân viên, đại diện cho 5 hệ phái luân phiên nhau làm Chủ tịch với một Ban Chấp hành gồm các nhân viên Đại diện cho 5 hệ phái.

Sau hơn một năm hoạt động, đến kỳ bầu cử Tổng Thống năm 1967, Trình Quốc Khánh tách khỏi khối Thống Nhứt, ra ứng cử chức Phó Tổng Thống trong Liên danh của Nguyễn văn Thiệu.

Một thời gian sau, cuối năm 1969, Lâm Thành Nguyên vì có trách nhiệm đối với anh em cựu chiến binh và cô nhi quả phụ mà ông có phận sự bảo vệ quyền lợi, hơn nữa theo luật 009/69 ngày 19-6-1969 không cho phép một người có chơn trong hai đảng, nên ông xin rút ra khỏi khối Thống nhứt để đứng đơn xin hợp thức hóa Tập đoàn cựu chiến sĩ HH/DX thành một tổ chức chánh trị.

Ngày 21-3-1973, Trần Duy Đôn đệ đơn lên Bộ Nội vụ xin rút tên ra khỏi Đảng Dân Xã Thống Nhứt, sau khi chánh quyền ban hành Sắc luật 060/TT/SLU ngày 27-12-1972 đặt các chánh đảng trong tình trạng bị giải tán nếu không hội đủ các điều kiện luật định.

Như thế, Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng Thống Nhứt chỉ còn có hai thành phần của Phan Bá Cầm và Trương Kim Cừu.

Chấm dứt chế độ Chủ tịch Đoàn, Đảng tổ chức lại đúng theo hình thức tổ chức nguyên thỉ, với lập trường cố hữu Đạo đức và Dân tộc, luôn luôn chủ trương:

– Lấy sự giải phóng Dân tộc, tranh thủ Tự do Dân chủ làm mục tiêu hành động,
– Lấy sự đoàn kết các lực lượng, quốc gia làm phương thức tranh đấu.
– Lấy giai tầng Nông dân, nhứt là miền Châu thổ sông Cửu long làm địa bàn hoạt động.

Đảng quan niệm sự tranh đấu như chiếc thuyền đi trên sông, nếu được nước xuôi gió thuận thì đi mau, bằng gặp gió ngang nước ngược thì ra tay chèo chống chớ không buông tay để cho thuyền bị đẩy lui lại. Ngộ giả, không thể tiến được thì cắm sào chờ nước xuôi gió thuận.

Chớ Đảng không bao giờ có vấn đề đình chỉ khi gặp khó khăn hay giải tán khi gặp chứng ngại, vì phương thức hoạt đồng của Đảng vừa có tánh cách chánh trị và cách mạng, có nhiều hình thái đấu tranh tùy từng giai đoạn, hoàn cảnh mà khi thì tranh đấu chánh trị, khi thì tranh đấu cách mạnh, lúc thì hoạt động công khai lúc lại hoạt động bí mật, miễn sao đạt đến mục đích, hoàn thành sứ mạng của tiền nhân giao phó, dầu hôm nay không thành thì ngày mai phải thành, lớp nầy ngã thì có lớp sau tiếp nối cho đến ngày đạt thành sở nguyện.

Dầu có đạt mục tiêu cũng chưa phải là chấm dứt. Xã hội loài người luôn luôn trên đà tiến hóa và luôn luôn cải thiện để thích ứng hoàn cảnh thì sứ mạng của Đảng khi hoàn tất một đoạn đường, lại hoạch định hành trình cho một đoạn đường mới, phù hạp với nhu cầu mới và phương thức hoạt động mới.

Thành thử đảng chánh trị không đặt ra vấn đề chấm dứt hay giải tán. Khi loài người còn và cần cải thiện đời sống để tự tốn thì đảng chánh trị vẫn còn cần thiết để tranh đấu cho phúc lợi của toàn dân.

Phương chi Đảng Dân xã đã do Đức Huỳnh Giáo Chủ hiệp với các nhà ái quốc thành lập. đã đóng góp rất nhiều xương máu tranh đấu cho quyền lợi Quốc gia, Dân tôc thì những người đi sau, hưởng công quả của những người đi trước, không có quyền đình chỉ hay chấm dứt sứ mạng của nó. Làm ngược lại là phản bội tiền nhân, phản bội công lao của những Liệt sĩ tranh đấu cho quyền lợi của Quốc gia dân tộc. Chúng ta chỉ có bổn phận phục vụ và hy sinh vì nó, để cho đất nước được trường tồn, giống nòi được truyền thụ.