Phật Giáo Hòa Hảo Trung Ương Hải Ngoại

Quyển Trung Tập 2/2

<< Chú-Giải Sấm-Giảng Thi-Văn Giáo-Lý Toàn Bộ

MỤC-LỤC: Chú-Giải Các Bài Pháp-Luận
1) Đức Phật đối với chúng sanh
2) Lời Khuyên Bổn Đạo
3) PHẬT là gì?
4) Chư Phật Có Bốn Đại Đức
5) Sơ Giải TỨ DIỆU ĐỀ (1)
6) Sơ Giải TỨ DIỆU ĐẾ (2)
7) Trong việc Tu thân Xử kỷ

NĂM THỨ 36

(1939 – 1975)

—oOo—

 

SẤM GIẢNG

THI VĂN TOÀN BỘ

 

 

CHÚ  GIẢI

 

QUYỂN TRUNG

 

TẬP 2/2

 

CÁC BÀI PHÁP-LUẬN

 

 

CHÁNH VĂN : ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ

 CHÚ GIẢI  : THIỆN TÂM

 

(LƯU HÀNH NỘI BỘ)

CHÚ GIẢI CÁC BÀI PHÁP LUẬN
(trang 445 – 460 SGTVTB 2004)

 XUẤT XỨ VÀ VĂN THỂ

        Đây là loạt bài Pháp luận nằm trong Thi Văn Giáo Lý Toàn Bộ, do Đức Thầy sáng tác năm Nhâm Ngũ (1942). Lúc đó Ngài đang lưu trú tại nhà ông Ký Giỏi (Bạc Liêu). Ngài viết các bài nầy bằng thể văn xuôi (tản văn), lối thuyết giáo. (Lẽ ra chúng tôi phải soạn bài Thập Nhị Nhân Duyên trước, nhưng vì theo lời ông Nguyễn Chi Diệp kể lại là Đức Thầy cho biết bài Thập Nhị Nhân Duyên và Môn Hoàn Diệt nằm trong Tứ Diệu Đề; nên chúng tôi soạn bài Đức Phật Đối Với Chúnh Sanh trước. Còn bài Thập nhị Nhân Duyên để sau soạn chung với bài “Sơ Giải Tứ Diệu Đề”)

Bài 1.- ĐỨC PHẬT ĐỐI VỚI CHÚNG SANH

CHÁNH VĂN

          Một ông cha ở trong gia-đình vẫn có lòng thương xót hết các con, dù lớn nhỏ, khôn dại gì cũng vậy. Tại sao ? Vì xét ra lớn nhỏ là tại đứa sanh ra trước, đứa sanh sau; khôn dại là tại đứa chăm học cùng biếng trễ, chớ cũng đồng là con đều do huyết nhục sanh ra. Vậy bổn-phận ông cha thì hết lòng lo dạy-dỗ các con, lo-lắng cho có gia-cư, nghiệp-nghệ, tài-sản để cho con, ruộng đất để cho con. Vậy thì tình thương vẫn đồng, mà cái chỗ âu-yếm ban thưởng nhiều khi có khác, ấy là phải tùy theo mỗi đứa. Tại sao vậy ? Vì đứa nào hiếu-thuận từ-hòa, dễ dạy, dễ biểu, thì ông cha âu-yếm hơn đứa ngỗ-nghịch, bạo tàn. Với đứa khó dạy thì ông chỉ biết than-thở mà thôi, chớ không thể âu-yếm đặng. Còn đứa nào cần-kiệm, lo giữ-gìn gia-sản của cha nó, chẳng cho hư-hoại, cẩn-thận từ ly, dầu lời nói hay việc làm để bảo-tồn danh-giá của cha nó, thì cha nó hằng ngày ban thưởng cho nó luôn, chớ không thể ban thưởng cho những đứa hoang chơi, tàn phá sự-nghiệp, làm những điều điếm-nhục gia-môn ! Những đứa ấy, ông cha có thể nén lòng mà rước lấy sự chế-nhạo, trách-cứ là nhiều lắm rồi, chớ làm sao mà ban thưởng đặng.

          Cũng mường tượng như trên, hỡi các người ! Đức Phật đối với chúng-sanh và môn-đồ như người cha đối với các hạng con trên đây vậy. Phật cũng yêu hết chúng-sanh, dầu kẻ ngu, người trí, yêu tất cả môn-đồ (dầu kẻ biếng-nhác với kẻ siêng-năng). Bởi tại duyên-nghiệp mỗi chúng-sanh chẳng đồng nhau, tu cao thấp khác nhau, nhưng mỗi chúng-sanh đều có Phật-tánh. Vậy lòng từ-bi của Phật là vì thương xót chúng-sanh, lo dạy-dỗ chúng-sanh, nhưng mà sự gần-gũi và ban phước-huệ vẫn có khác, vì phải tùy theo mỗi kẻ tín-đồ. Người tín-đồ nào hằng ngày vâng lời Phật dạy, rán lo học hỏi, tìm kiếm đạo mầu, quí trọng chuyện lành thì Phật thường gần-gũi hơn đứa đã dạy nhiều lần mà chẳng chịu nghe theo, và thường ban thưởng cho kẻ tín-đồ nào quí trọng kinh luật của Phật, chăm lòng giữ theo giới-luật, cẩn thận từ lời nói việc làm, đừng để cho người ta nhạo-báng Phật hay chê-bai Thầy của mình. Còn những kẻ tín-đồ dối tu, chẳng vâng lời dạy, chẳng giữ giới-luật thì trên là Đức Phật và dưới là ông Thầy của kẻ ấy chỉ lấy lòng từ-bi mà nhận sự trách-cứ của kẻ ngoại đạo, chớ không thể nào mà gần-gũi và ban phước-huệ cho kẻ chẳng thành-tín kia đặng.

                      Bạcliêu, ngày 24-8 Nhâm-Ngũ (1942)

                                ( SGTVTB 2004 , 447-449 )    

 

LƯỢC GIẢI :

        Xưa nay sở dĩ người ta tin Phật, qui y Phật là vì nhận nơi Ngài có đức độ cao cả, trí tuệ siêu mầu vượt hẳn hàng phàm phu và Tiên Thánh. Có nhận thức một cách chính xác như vậy, người ta mới vui lòng hăng hái, vâng làm theo lời dạy bảo và giới hạnh của Ngài. Cũng nhằm mục đích đó, Đức Thầy dạy môn đồ bài “Đức Phật Đối Với Chúng Sanh”. Căn cứ theo chánh văn gồm có các phần như sau:

        I.-TÌNH THƯƠNG CỦA CHA MẸ.

          1-Tình thương của cha mẹ đối với các con:

          Vì muốn cho tín đồ dễ hiểu, trước nhứt, Đức Thầy đưa ra một bằng chứng cụ thể trước mắt mọi người, là tình thương của người cha đối với đàn con trong gia đình. Tuy trong số các đứa con ấy có chênh lệch lớn nhỏ, thông minh hay ngu dốt, tật nguyền hay nguyên vẹn, nhưng cha mẹ vẫn thương đồng đều.

        Bởi xét rằng do duyên nghiệp quá khứ và hiện tại của mỗi người con không giống nhau như kẻ sanh trước thì lớn, sanh sau thì nhỏ. Người con nào biết siêng năng học hành, tìm tòi những cái hay cái đẹp thì thông minh, còn kẻ nào lười biếng ham chơi sẽ bị ngu dốt. Người nào thời quá khứ hoặc hiện tại biết lo trau giồi tâm đức, ăn ở hiền lành thì được thân hình tốt đẹp, các căn đầy đủ. Còn kẻ nào tư tưởng hành động hung ác thì mang thân tật bệnh, xấu xa. Tuy thân tâm của các đứa con có khác biệt, song cùng đồng do huyềt nhục của cha mẹ sanh ra và cũng uống chung một dòng sữa cho nên tình thương của cha mẹ đối với các con không khác biệt.

        2Bổn phận người cha:

          Do lòng thương yêu tha thiết ấy, nên người cha có trách nhiệm nuôi cho con lớn, dạy dỗ cho con khôn ngoan, lo cho con có nghề nghiệp căn bản sanh sống và đạo đức đối xử. Thậm chí cha mẹ còn phải lo tạo sự nghiệp, tiền của, ruộng vườn giành để cho con trước khi nhắm mắt,

        Tóm lại, tình thương và sự lo lắng của cha mẹ đối với các con là đồng đều, nhưng sự âu yếm và ban thưởng vẫn có khác, vì phải tùy theo tánh chất tốt lành hay ngỗ nghịch của mỗi đứa con.

        3-Đối với đứa con ngỗ nghịch:

          Con ngỗ nghịch là con bất hiếu, không vâng lời dạy bảo của cha mẹ, hung ác bạo tàn, lười biếng hoang chơi, phá hoại sự nghiệp, làm những điều xấu xa mất cả danh giá của gia đình, thân tộc. Đối với các đứa con nầy, người  cha chỉ biết than thở và nén lòng mà nhận sự chê bai, thống trách của kẻ khác, chớ không thể nào âu yếm và ban thưởng đặng.

        4-Đối với đứa con tốt lành:

          Những người biết hiếu thuận từ hòa, siêng năng tiết kiệm, cẩn ngôn cẩn hạnh, lo giữ gìn sự nghiệp, giá phẩm của cha mẹ để lại, thì người con ấy sẽ được ông cha hằng ngày âu yếm và ban thưởng.

        II.- TÌNH TỪ BI CỦA PHẬT VÀ THẦY

        1-Phật đối với chúng sanh và môn đồ:

          Lòng từ bi của Phật và Thầy lúc nào cũng bình đẳng thương xót khắp cả, từ nhơn sanh, môn đồ đến muôn loài vạn vật hữu tình. Cũng thế, người cha đối với các hạng con vừa nói trên, bất luận trí ngu, tinh tấn hay giải đãi, hoặc phát tâm tu cao thấp, trước sau, song vì chúng sanh đều có Phật tánh như nhau, nên Phật và Thầy đều thương yêu tất cả. Kinh xưa thường nói:“Phật ái chúng sanh như mẫu ái tử”(Phật thương chúng sanh như mẹ thương con).

        Ngày nay Đức Thầy dạy:

                “Phật thương bổn đạo như con,

                 Muốn cho bổn đạo lòng son ghi lời”.

        Và:

        “Tình yêu mà chẳng riêng ai cả,

           Yêu khắp muôn loài lẫn chúng sinh”.

        2-Bổn phận của Tổ Thầy:

          Bởi đầy lòng từ bi bác ái, nên Đức Phật, Đức Thầy lúc nào cũng có bổn phận giáo độ chúng sanh ra khỏi vòng trầm luân oan nghiệt.

        Phật Tổ xưa còn ở nơi trần,

          Ngài gắng sức ra công hoằng hóa”.

        Và:

        “Đâu đâu bá tánh cũng con lành,

          Thầy dạy cho đều khắp chúng sanh”.

        Tuy lòng thương và sự giáo độ của Đức Phật và Đức Thầy rất bình đẳng, vô tư, song sự gần gũi và ban phúc huệ có khác, vì phải tùy theo duyên nghiệp và tâm hạnh của mỗi tín đồ.

        3-Đối với tín đồ biết vâng lời:

          Đối với những tín đồ tốt thì Đức Phật và Đức Thầy  luôn luôn gần gũi, ủng hộ, ban phước. Họ là những người:

          – Biết tuân thủ lời chỉ dạy của Đức Phật, Đức Thầy, lo học hành Kinh Giảng để tìm hiểu lý mầu trong Đạo pháp:

        “Khá chí tâm học hành Kinh sám”. Hoặc:

          “Sớm tỉnh Kệ Kinh tìm hiểu lý”.( ĐT).

        – Hằng lo vẹn gìn giới luật, quyết chí tu hành, thận trọng từ ý nghĩ tới lời nói, việc làm, tránh điều xấu ác và biết bảo vệ thân danh chung cho Đạo. 

        Xưa có một kỹ sư, gia đình rất giàu có. Vợ chồng vị kỹ sư nầy sanh được ba người con trai, khi lớn lên đều được đi học. Hai cậu con trai lớn thường hay biếng trễ, duy chỉ có cậu con út là chăm chỉ học hành.

        Hôm nọ, vị kỹ sư thấy mình đã già yếu, nên kêu ba người con đến bảo:

        -Chắc chẳng còn bao lâu nữa Ba sẽ từ biệt cõi đời, vậy mỗi con nên nói rõ ý muốn của mình để Ba phân chia của cải cho !

        Người con lớn đứng lên nói:

        -Thưa Ba ! Ý con muốn trước khi từ trần, Ba giao cái gia tài đồ sộ nầy cho con !

        Người con thứ nhì nói:

        -Thưa Ba ! Phần con muốn được Ba giao hết đất vườn cho con.

        Vị kỹ sư nhìn qua người con út nãy giờ đứng làm thinh, hỏi:

        -Còn con út muốn gì, cứ nói ?

        Cậu bé đứng khoanh tay thưa:

        -Thưa Ba ! Nguyện vọng của con là chỉ mong Ba cho con ăn học để trở thành một kỹ sư như Ba.

        Ông kỹ sư mỉm cười tỏ vẻ hài lòng, rồi nhìn ba người con phân trần:

        -Trước kia, sau khi ba ăn học thành tài, tiền của hết sạch, chỉ còn lại hai bàn tay trắng, nhờ có mớ kiến thức và biết siêng năng tiết kiệm mà Ba tạo nên sự nghiệp như thế nầy. Hôm nay, hai con lớn muốn Ba giao hết gia tài, vườn ruộng nầy cho thì cũng được, nhưng hai con nên biết dầu có tiền của bao nhiêu đi nữa, hễ tiêu xài trong một thời gian nào đó rồi cũng hết. Còn thằng út, em của hai con, nó nuôi chí và siêng năng học hành để thành một kỹ sư thì sau nầy nó sẽ tạo ra sự nghiệp có thể giàu gấp mấy lần Ba hiện nay.

        Quả thật, đứa con út của vị kỹ sư về sau cũng tốt nghiệp kỹ sư như cha và trở nên giàu có hơn cả người cha.

        Câu chuyện trên giúp cho người tu nhận rằng: Đức Phật và Đức Thầy lúc nào cũng muốn cho tín đồ thành Đạo giải thoát, song với điều kiện là phải thực hành y theo lời dạy của các Ngài. Cho nên Đức Thầy hằng khuyên:

                “Qui y thì khá làm y,

          Giữ lòng thanh tịnh từ bi giúp đời”.

        Và:  

        “Phật từ thiện cách nào ta phải từ thiện theo cách nấy, Phật tu cách nào đắc đạo rồi dạy ta, ta cũng làm theo cách nấy”.

        Vậy nhà tu muốn kết quả tốt, mỗi người của chúng ta nên ghi nhớ và thực hành các điểm căn bản như sau:

        a)- Bốn cách phát tâm:

          1-Phát tâm kính tin Đức Phật và Thầy, tức phải vâng lời chỉ dạy của Phật và Thầy.       

        2-Phát tâm thương kính Phật và Thầy, tức chẳng phụ công ơn của các Ngài.

        3-Phát tâm tưởng nhớ Phật và Thầy, tức muốn gặp các Ngài.

        4-Phát tâm phụng hành theo lời giáo huấn của Phật và Thầy, tức phải độ tất cả chúng sanh nơi tự tánh (phiền não) và chúng sanh ở bên ngoài.

        b)- Bốn điều tự quyết:

          1-Vâng lời Phật và Thầy phải tự quyết tâm qui.

        2-Chẳng phụ công ơn của Phật và Thầy ta phải tự quyết hành y.

        3-Muốn được gặp Phật và Thầy ta phải tự quyết tinh tấn tu hành.

        4-Độ chúng sanh ta phải tự quyết từ bi bình đẳng.

        c)- Bốn điều duy nhứt:

          1-Tự quyết tâm qui tất phải duy nhứt Niết Bàn.

        2-Tự quyết hành y tất phải duy nhứt Chánh Đạo.

        3-Tự quyết tiến tu tất phải duy nhứt giải thoát mê ly.

        4-Tự quyết từ bi bình đẳng, tất phải duy nhứt cứu khổ muôn loài.

        Đức Thầy luôn nhắc nhở:

                Phật từ bi độ tử độ sanh,

                   Là độ kẻ hiền lương nhơn ái”.

        4)- Đối với tín đồ dối tu:

          Những kẻ tín đồ không thật tâm tu niệm, chẳng phụng hành theo lời giáo huấn của Tổ Thầy, phá giới thôi chay, hành động nhiều điều xằng bậy, làm mất phẩm giá chung cho Đạo, thì Đức Phật cũng như Đức Thầy “Chỉ lấy lòng từ bi mà nhận sự trách cứ của kẻ ngoại đạo, chớ không thể nào gần gũi và ban phước huệ cho kẻ chẳng thành tín kia đặng”.

        Thuở Đức Thầy mới khai Đạo (1939). Hôm nọ, Ngài đang đứng trước sân nhà của Ông Nguyễn Duy Hinh, phía dưới Tổ Đình khoảng 100m, lúc đó có mặt Ông Năm Chơn, ông Lê Văn Diệp và ông Nguyễn Duy Hinh.

        Đức Thầy nhìn các ông nói:

        -Các ông bây giờ là bà con thân tộc với tôi, và cũng là tín đồ lớn nữa. Nhưng sau nầy có việc tôi phải vắng mặt trong một thời gian. Chừng tôi trở lại chưa chắc gì các ông được gặp tôi, nếu các ông chẳng tự lo tu hành.

        Ngưng lại một phút, Ngài nói tiếp:

        -Đến ngày ấy không phân biệt người dưng hay thân tộc, không phân biệt tín đồ lớn hay nhỏ, hoặc già trẻ, sang hèn, sau trước…nếu ai tu hành đúng theo giáo lý của tôi thì được gặp tôi. Bằng không sẽ bị lọc ra hết !

        Điều nầy trong Sám Giảng quyển Ba, Ngài đã nói:

                “Ai mà ta dạy chẳng gìn,

           Thì sau đừng trách mất tình yêu đương”.

        Cho nên Ngài hằng khuyên:

        “Giảng Kinh đọc tụng chiều mai,

           Làm theo lời chỉ ngày rày gặp ta”.

        Đại khái qua bài Đức Phật đối với chúng sanh”, ta  thấy rằng lòng thương yêu giáo độ của Tổ Thầy đối với chúng sanh và môn đồ thật bình đẳng, bao la vô bờ bến nhưng cũng rất thực tế và công bình đáo để. Có làm thì có ăn, có tu thì có hưởng, không hề vị tư cá biệt. Là một tín đồ nhà Phật, chúng ta phải chú ý ở điểm nầy, để giữ trọn niềm tin và lo tu thân lập hạnh, đúng theo lời chỉ giáo của Tổ Thầy, hầu đáp lại tình từ ái rộng sâu của các Ngài.

 

CHÚ THÍCH :

        HUYẾT NHỤC: máu và thịt, đồng nghĩa chữ “cốt nhục”(xương thịt). Ý nói đàn con cùng một dòng tinh huyết, cốt tủy của cha mẹ sanh ra, và cũng cùng uống một dòng sữa của mẹ mà lớn lên, nên gọi là tình ruột thịt.

                “Cũng đồng cốt nhục hoài thai,

           Nên ta rán sức miệt mài dạy khuyên”.

        BỔN PHẬN: Phần việc và trách nhiệm của mình.

        GIA CƯ: Nhà ở.

        ÂU YẾM: Quấn quít, quyến luyến, thương yêu không rời.

        HIẾU THUẬN: Hiếu: hết lòng phụng dưỡng cha mẹ; thuận: nghe theo. Tuân lời cha mẹ dạy bảo để sống hòa thuận vui vẻ. Xem thêm tr. 130.

        TỪ HÒA: Hiền lành hòa huỡn, không nóng nảy, hung hăng, quá khích.

        GIA SẢN: Nhà cửa và tài sản của cải.

        ĐIẾM NHỤC: Xấu xa nhục nhã.

        MÔN ĐỒ: Học trò (nghĩa của chữ tín đồ).

        DUYÊN NGHIỆP: Cũng gọi là nghiệp duyên. Nghiệp là việc làm hay tạo tác, là hột giống. Duyên là những cái trợ trưởng cho việc làm hay hạt giống ấy, lên cây kết trái. Ý nói những thành quả xấu tốt ở hiện tại, là do nhân duyên tạo tác lành dữ của mỗi người ở quá khứ mà ra. Đây là định luật nhân duyên nghiệp báo.

        Phải rõ nghiệp duyên trần cấu tạo”.( ĐT)

        PHẬT TÁNH: Tánh giác ngộ, tức là hột giống Phật. Đức Phật bảo mỗi chúng sanh đều có tánh giác ngộ như nhau (Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh).        Đức Thầy cũng nói:

        “Ngài bèn xét ở trong Phật chủng,

          Các chúng sanh đều có như ta”.

        ĐẠO MẦU: Sự mầu nhiệm sâu kín trong giáo pháp Đạo Phật. Đức Thầy có câu:

        “Quan sát Đạo mầu nẻo ẩn vi”.

        Và:

        “Tìm tõi Đạo mầu trong Phật pháp,

           Cho đời hiểu rõ lý chơn không”.

        KINH LUẬT: Kinh giảng và giới luật. Hai tạng trong ba tạng: Kinh, Luật, Luận.

        Chi cho bằng ta sớm lo toan,

          Gìn giới luật nghe kinh trọng Phật”.( ĐT)

        THÀNH TÍN: Cũng gọi là tín thành. Có nghĩa là tin tưởng và hành Đạo một cách thành thực chơn chánh, không hề lãng tâm dối trá.

          Phật chẳng qua dụng chữ tín thành,

              Chớ nào dụng hương đăng trà quả”.( ĐT)

Bài 2.- LỜI KHUYÊN BỔN ĐẠO

CHÁNH VĂN

        Trong khi các trò còn ở trong biển mê sông khổ, thường bị những chướng nghiệp nhiều đời mà làm cho linh hồn chìm đắm trong ba cõi sáu đường, xuống xuống lên lên, luân-hồi chuyển kiếp, ấy cũng tại sự mê lầm của lục căn mà say đắm lục trần; ý-thức lầm-lạc ấy khiến các trò nhận lấy cái thân ô-trược nầy là thật, cái cảnh phú-quí cùng cuộc tình duyên tồn tại vui say. Nào hay thân vô-thường tạm mượn do tứ-đại hiệp thành. Cuộc phú quí tựa đám phù-vân, cái sắc nước hương trời ấy của các trò có khác chi cành hoa sớm nở chiều tàn, không chi bền chắc, còn tội-chướng thì linh-hồn phải chịu luân chuyển báo đền.

          Ngày nay đã tỉnh ngộ qui y cùng Phật-pháp. Như vậy cửa trường-sanh bất diệt các trò đã gặp nẻo, nương đèn trí-huệ, ly xuất phàm-trần, chán cảnh phồn hoa tìm nơi tịch-tịnh. Nhưng các trò tuy lòng mộ Đạo, chớ chưa hiểu rành nẻo bước đường đi. Hãy tạm xét chữ qui y cho thấu đáo: Qui là về, mà về đâu ? Về cửa Phật. Y có nghĩa là vâng lời theo khuôn-mẫu.

          Vậy qui y đầu Phật là nương nhờ cửa Phật và làm y theo lời Phật dạy. Phật từ-thiện cách nào ta phải từ-thiện theo cách nấy. Phật tu cách nào đắc Đạo rồi dạy ta, ta cũng làm theo cách nấy. Thầy cảnh tỉnh giác-ngộ điều gì chánh đáng thì khá vâng lời. Cần nhứt là ở chỗ giữ giới-luật hằng ngày. Còn sự lễ bái là điều phụ thuộc, là món trợ đạo để nhắc nhở các trò nhớ phận sự mà làm. Thầy xét trong tam nghiệp, các trò còn mang nặng lắm. Trong đường tu nương theo tam nghiệp, thì khổ-não lắm. Chúng-sanh tịnh được tam nghiệp mới mong về cõi Phật. Tam nghiệp là: Thân nghiệp, Khẩu nghiệp, Ý nghiệp (đọc lại trong cuốn Khuyến-Thiện).

          Nhưng Thầy xét lại cái khẩu nghiệp của các trò nặng-nề hơn hết. Hãy lấy gươm trí-huệ mà dọn sạch ma lòng, hãy lấy lòng khoan-dung mà đối-đãi lẫn nhau, hãy lấy lòng bác-ái nhân-đạo mà cư-xử với mọi người. Cần hiểu cái lý vô-ngã của nhà Phật. Hãy rán sức thi hành sẽ có Thầy ủng-hộ.

                             Kệ rằng :

        Đạo pháp thường hay dung với hòa,

          Xét người cho tột xét thân ta.

          Nếu người rõ phận vui lòng thứ,

          Ta thứ được người, người thứ ta.

                    Bạc Liêu, năm Nhâm Ngũ.

                ( SGTVTB 2004, 449-450 )

 

                           LƯỢC GIẢI :

        Xưa, Đức Phật dạy: từ vô thỉ tất cả chúng sanh đồng một bản thể như chư Phật. Song vì vọng niệm mê lầm mà phải chuyển luân trong bể trần thống khổ. Để đánh thức những linh hồn ấy sớm hồi tâm tỉnh ngộ, Phật thường thuyết bài pháp “Khổ não, vô thường và vô ngã”. Thời nay, Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng muốn ý thức mọi người nhận rõ sự mê khổ của chúng sanh không ngằn mé như sông dài biển rộng nên Ngài trùng tuyên đề tài ấy qua bài “LỜI KHUYÊN BỔN ĐẠO” gồm có những phần chính như sau:

        I- ĐAM MÊ:

          1/- Các nỗi khổ của chúng sanh:

          Tại sao gọi là “sông mê bể khổ” ? Vì có “Mê man danh lợi cõi hồng trần”, nên bị hồng trần làm khổ lụy, không một ai tránh khỏi. Thân đã gánh chịu các sự khổ về: sanh, già, bịnh, chết. Còn tâm thì vương các nỗi khổ: ham muốn không thành, oán ghét gặp nhau, những người thân thương lại chia ly, và buồn phiền lo nghĩ không hề dứt. Chẳng thế, còn bao cảnh khổ bên ngoài đưa đến như: chiến tranh, thiên tai, địa ách…Đã mang thân sống trong cõi trần, dù bất cứ hạng người nào cũng đều chịu chung kiếp sống khổ, một nhà thơ Việt Nam công nhận:

        “Bể khổ mênh mông sóng lụt trời,

        Khách trần chèo một chiếc thoàn khơi.

        Thuyền ai ngược gió ai xuôi gió,

        Gẫm lại cùng trong bể thảm thôi !”

        Tỏ rõ hơn, Đức Thầy đã xác định:

        Cảnh thế gian dường thể chốn ao tù,

          Trong biển khổ mấy ai mà thoát đặng”.

        2/-Nguyên nhân sanh khổ:

          Điểm thứ hai, Đức Thầy cho biết, sở dĩ có những nỗi khổ là do “chướng nghiệp nhiều đời” của mỗi chúng sanh hoặc nhiều chúng sanh tạo nên “nghiệp chướng lăng loàn hại xác thân”.Nghĩa là từ nghiệp tội đời nầy lưu truyền qua đời khác, cứ tiếp nối nhau luôn.

        Nguyên khởi từ phiền não chướng: tham, sân, si (ý nghiệp), mới sanh ra nghiệp chướng (của thân khẩu). Đó cũng gọi là nhân chướng, rồi bị báo chướng trả lại, tức là bị trả quả. Chính nó làm trở ngại con đường giải thoát nên gọi là chướng. Cũng như kẻ gieo giống, trồng cây thì phải có ngày ăn trái. Trong khi đó vừa bị trả quả những nghiệp cũ lại tạo tác nghiệp mới, để rồi bị luân chuyển qua kiếp sau trả nữa; cứ thế mà tiếp nối mãi mãi. Sự luân chuyển nầy tùy theo nghiệp lành dữ, nặng nhẹ của mỗi chúng sanh. Có khi lên được ba cõi trời: dục giới, sắc giới và vô sắc giới, có khi vào các cõi: Người, A tu la, Súc sanh, Ngạ quỉ, Địa ngục. Song cũng đồng nằm trong định luật nghiệp báo luân hồi nơi ba cõi sáu đường. Cho nên Đức Thầy gọi là “Xuống xuống lên lên luân hồi chuyển kiếp”.

        3/-Ý thức sai lầm:

          Đã hiểu luân hồi (thọ nhận  thân khác) là bị chi phối bởi nghiệp chướng của vô minh phiền não từ hột giống ô nhiễm mê lầm sẵn có trong tiềm thức (A Lại Da Thức). Từ đó, sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) thường mê nhiễm theo sáu trần (sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, sự xúc chạm sung sướng, danh vị cao sang). Sự nhận lầm xác thân ô uế giả hợp là thật, là trong sạch thơm tho, bao nhiêu sự giàu sang, của tiền, sự nghiệp, hạnh phúc tình yêu, sẽ giữ còn vĩnh cửu, mãi đến khi sắp lìa đời mà lòng tham ái vẫn còn, nên linh hồn phải luân hồi trở lại, để tiếp tục con đường mê lầm khổ não đó. Cho nên:      

        “Từ nhỏ tuổi đến người trưởng lão,

           Mắc trong vòng sanh tử luân hồi.( ĐT)

        4/- Vô thường vô ngã:

          Muốn tránh khổ và tận diệt nguyên nhân sanh khổ, hành giả trước phải quán xét lý vô thường, vô ngã.

        a)- Xác thân vô thường: Xét rằng thân nầy được tạo thành là do nhân duyên hòa hợp, từ linh hồn và từ tinh huyết của cha mẹ với tứ đại (bốn chất: đất, nước, gió, lửa) nên đến khi già, bệnh, các nhân duyên ấy dứt thì thân nầy phải tan rã, và tứ đại  phải trả về cho tứ đại. Vả lại, từ nhỏ đến lớn, thân ta cũng luôn biến đổi vô thường theo thời gian, huống chi là đến già bệnh chết.

        Trải bao phen dãi gió dầm mưa,

          Ngày kiệt sức huyễn thân tan nát”.( ĐT)

        b)- Cảnh vật vô thường:

        Xác thân là vô thường thì cảnh vật cũng theo thời gian mà biến đổi vô thường:

        “Cuộc tang thương dâu bể cảnh trần.( ĐT)

        Thế thì bao nhiêu cuộc phú quí vinh hoa, ruộng vườn, tiền của, vợ đẹp con ngoan, thân bằng bạn hữu,… cũng không giữ mãi được. Chỉ là:

        “Giấc mộng Nam Kha chốn thế trần,”

        Hay là:

        “Công danh phú quí chung huờn mộng”.( ĐT)

          c)- Vọng tâm vô thường:

          Đã từ vọng tâm mà sanh ra kiếp sống nên kiếp sống cũng bị vọng tâm sai khiến.  Bao sự vọng khởi vui buồn, ghét thương, giận tức…làm đảo lộn tâm trí con người, không lúc nào bình yên dừng nghỉ, như con vượn chuyền cây, hết cành nầy sang cành khác.

        Thế thì từ xác thân, cảnh vật đến vọng tâm đều là ảo ảnh, vô thường và vô ngã, chẳng có cái gì là còn mãi và thật của ta:

        “Thế thượng vạn ban đô thị giả,

          Nhơn gian Đạo đức quả duy chơn”.

        (Trên đời không vật chi là thật,

        Chỉ có Đạo mầu mới thật chơn).

                (Tỉnh Thế Ngộ Chơn)

        Trong Kinh Kim Cang, Phật bảo:

        “Nhứt thiết hữu vi pháp,

        Như mộng huyễn bào ảnh.

        Như lộ diêc như điển,

        Đương tác như thị quán”.

        Tạm dịch:

        “Phật rằng muôn pháp trong đời,

        Ví như sương bọt giữa vời dễ tan.

        Chiêm bao, điện chớp, tiếng vang,

        Đến như thân xác hơi tàn còn đâu”.

        Đức Thầy nay cũng xác định:

        “Gẫm cuộc thế chẳng qua tuồng mộng ảo,

           Cuộc truy hoan thường giết khách tài hoa”.

        Cho nên, Ngài kêu gọi:

         “Nghe chuông linh sớm dứt bể ái hà,

            Kẻo vật dục cuốn lôi vào bể khổ”.

        Hoặc là:

          “Phù sanh nhược mộng đời lao khổ,

            Tỉnh trí tu thân khỏi lạc lầm”.

        II- TỈNH NGỘ:

          1)- Nương đuốc huệ tiến tới Niết Bàn:

        Nhờ tiếng chuông Đạo pháp của Đức Thầy, chúng ta sực tỉnh giấc mộng trần gian, nhận được kiếp sống đầy khổ đau, vô thường và vô ngã, mới thức tỉnh tu hành, qui y Tam Bảo. Thế là ta được bước vào ngưỡng cửa của con đường Đạo tiến tới Niết bàn. Nơi ấy trường tồn bất diệt, có đủ bốn đức: chơn thường, chơn lạc, chơn ngã, chơn tịnh. Nhưng muốn tiến tới mục đích ấy, Đức Thầy dạy môn đồ phải “Nương đèn trí huệ, ly xuất phàm trần”. Vậy đèn trí huệ ở đâu ? Chúng ta mới tu chưa có trí huệ, nên phải nương đèn trí của Đức Thầy:

        “Nương theo đuốc huệ tầm chơn lý,

          Lóng tiếng từ bi diệt dục lòng”.

        Đức Thầy dùng trí huệ viết ra Kệ Giảng giáo hóa môn đồ, trong đó có đủ phương cách giúp cho ngưòi tu: rèn trí huệ, đạt chơn lý và diệt lòng dục nhiễm danh lợi tình để bước tới:

        “Niết Bàn tịch tịnh là đường vô sanh”.( ĐT)

        2)- Nhận xét chữ qui y:

        Con đường từ ngưỡng cửa đến mục đích cuối của Đạo không phải bước một bước mà tới được. Hành giả phải đi từ thứ lớp:“ Đường đạo đức bước đi từ nấc”( ĐT). Cho nên, Đức Thầy dạy tín đồ, sau khi thức tỉnh và vạch một hướng nhắm tới Niết bàn, cần xét lại bước đầu, cho thấu đạt ý nghĩa hai chữ qui y (Xem thêm phần Chánh văn của Đức Thầy).

        Bởi có nương về với Tam Bảo, có hành trì theo hạnh đức và lời giáo huấn của Phật, Pháp, Tăng; có cải hối ăn năn làm lành lánh dữ và có giữ tròn giới luật mới xứng đáng là một tín đồ của Đạo. Chính đó là nấc thang đầu, là nền tảng của Tam thừa Tứ quả. (Tam thừa: Thượng, Trung, Hạ,  hoặc Bồ Tát, Duyên Giác, Thinh Văn; Tứ quả: Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thinh Văn. Tùy từng chỗ dùng, cũng giải là: Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán). Thế nên nhà tu muốn đạt đến quả vị nào trong Đạo Phật, cũng phải khởi hành từ hai chữ qui y.

        Để tóm kết đề mục nầy ta nên tâm niệm hai câu giảng gồm đủ sự lẫn lý, tự giác, giác tha:

                “Qui y thì khá làm y,

            Giữ lòng thanh tịnh từ bi giúp đời.( ĐT)

        3)- Nghiêm trì giới luật:

        Xưa nay người tu Phật hễ phát nguyện qui y thì phải thọ giới. Cho nên, sau phần nhận xét về chữ qui y, Đức Thầy đề cập đến sự trì giới:“Cần nhứt là ở chỗ giữ giới luật hằng ngày. Bởi sự nghiêm trì giới luật sẽ ngăn chận được các điều tội ác của thân, khẩu, ý và nội ma, ngoại cảnh không còn xúi giục, khơi gợi. Giới luật như hai hàng rào không cho heo gà phá rẫy, là hai bờ lề của con lộ giúp cho các loại xe khỏi chạy rớt xuống hố, là hai hàng lan can cầu, để xe và hành khách qua cầu khỏi bị rơi xuống sông. Cho nên, Đức Thầy hằng dạy:

        “Đồ lao muốn lánh sớm nghe Ta,

        Bố thí trì chay giữ giới mà”.

        Hoặc là:

        “Gìn giới cấm sửa tâm ô tạp”. 

        Diệu năng của giới luật thật vô lượng, vô biên, nên Cổ Đức hằng bảo:

       “Giới minh như nhựt nguyệt, diệc như anh lạc châu.

        Vi trần Bồ Tát chúng, do thị thành chánh giác”.       (Giới sáng như mặt trời, mặt trăng và cũng như hột châu anh lạc. Chư Bồ Tát đông như số vi trần đều nhờ trì giới mà thành tựu ngôi Chánh giác).

        Và các Ngài luôn xác định:

        “Tam giới Phật Pháp, Giới vi căn bản.

         Bản chi bất tu, Đạo viễn hồ tai”.

        Tạm dịch:

        “Ngàn xưa chư Phật ba đời,

         Đều tu giới luật làm thời bản căn.

         Bản căn nếu chẳng trì hằng,

        Ắt là tánh Đạo khó bằng nên công”.

        Vì thế, quả quyết rằng nếu nhà tu không gìn giữ giới luật tất không xứng đáng là một môn đồ hay Phật tử, thì trông gì đến hàng “Tứ quả Tam thừa”.

        Tóm lại, là một tín đồ PGHH, chúng ta nên cố gắng gìn giữ nghiêm chỉnh Tám điều răn cấm. Chính nó là then chốt, là căn bản đầu tiên, rồi lần lượt tiến tới “Thập bát giới”( tức sáu căn, sáu trần và sáu thức) để đắc lục thông thành quả A La Hán. “Nhân căn trần thanh tịnh nhi đắc lục thông thị hiện giả dã” ( Sáu căn đối với sáu trần mà lòng vẫn như như bất động, không phân biệt nhiễm ô, tức đắc được sáu pháp thần thông ).

        4)- Xét Về Sự Lễ Bái:

        Đây là nói đến hai thời cúng lạy: sáng và chiều của mỗi tín đồ PGHH. Hễ qui y thì có lễ bái, nhưng tại sao Đức Thầy cho biết:“Còn sự lễ bái là điều phụ thuộc, là món trợ đạo để nhắc nhở các trò nhớ phận sự mà làm. Vì hồi chưa tu, lúc nào tâm ý ta cũng buông lung theo vọng trần, xấu xa, ích kỷ,…suốt ngày đêm không phút nào dừng lặng (tâm viên ý mã). Giờ đây, muốn cải đổi cho lòng thanh tịnh, tốt lành, từ bi bác ái thì nhờ hai thời lễ bái, nhắc nhở ta trở lại tâm hồn đó. Rồi tập dần đến lúc đi, đứng, ngồi, nằm đều được yên lặng chánh chơn: “Sớm tối đi nằm y chánh pháp( ĐT), tức từ phàm phu trở thành Phật Thánh:

        “Thì hiền lương quên mất điều tà,

           Đặng hạnh phúc nhờ lòng cố gắng”.( ĐT)

        Vì thế, sự lễ bái gọi là món trợ đạo, còn tu sửa là chánh. Lễ bái dụ như đất và phân nước giúp cho hạt giống được nên cây trái. Cho nên sự lễ bái cũng rất cần cho sự hành đạo, hành giả phải áp dụng cho đến khi thành quả:

         Sớm với chiều gắng chí nguyện cầu,

           Thì sẽ được tòa chương dựa kế”.

        Và:

        “Sớm chiều bình đẳng chớ lơi,

         Thường hành như vậy nhớ lời đừng sai.( ĐT)

        Tam nghiệp ( thân, khẩu, ý ) sanh ra mười điều ác. Mỗi chúng sanh đã gây tạo nó từ vô lượng kiếp, rồi vay trả, trả vay lưu truyền tới giờ. Chính nó là hột giống sanh tử, là nghiệp nợ nặng nề hơn hết, nhứt là khẩu nghiệp người tu rất dễ vi phạm. Vậy ai muốn giải thoát sanh tử phải tịnh tam nghiệp, chừa thập ác và hành thập thiện. Đức Thầy hằng dạy:“Chúng sanh tịnh được tam nghiệp mới mong về cõi Phật”. Và:

        “Ác trừ xong hiện ra thiện nghiệp,

          Lóng nguồn chơn Phật tiếp dẫn cho”.( ĐT)

        III- PHƯƠNG PHÁP THOÁT KHỔ

                ĐẠT NIẾT BÀN:

          1)- Tu Trí Huệ Trừ Ma Lòng:

          Cần lưu ý chữ ma:

        –Ma lòng gồm có tham, sân, si trong tâm ý của mỗi người:“Tà kiến tam độc thật Ma vương”.(Pháp Bửu Đàn Kinh).

        –Ma ngũ ấm (ngũ uẩn): sắc, thọ, tưởng, hành, thức hay tham, sân, si, nhân, ngã.

        –Ma thất tình, lục dục cũng gọi là thập tam ma.

         Ma là một từ đối lập với từ Phật, hễ lòng có Phật thì không có Ma, lòng có Ma thì không có Phật. Ma Phật trong lòng lựa phải tìm đâu” (Giác Mê của Đức Phật Thầy). Đức Thầy xác định:

        “Cái chữ tâm mà quỉ hay ma,

           Tiên hay Phật cũng là tại nó”.

        :

        “Làm gian ác là quỉ là ma,

          Làm chơn chánh là Tiên là Phật”.

        Hiểu được Ma lòng ra sao, hành giả hãy lấy trí huệ mà dẹp nó. Lúc mới vào Đạo, ta phải nương theo trí huệ của Tổ Thầy để mồi qua cây đuốc huệ của ta bằng cách  trì giới cho Tâm bình tịnh được thì phát huệ”. Hoặc diệt si mê, phá vô minh thì trí huệ lần lần sáng tỏ, đây là pháp môn “Vô tận đăng”. Khi có “Giới Định Huệ” thì ma phiền não: tham, sân, si chẳng còn và soi tan luôn cả ngũ uẩn:“Chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách”(Bát Nhã Tâm Kinh). Đức Thầy đã dạy:Huơi gươm trí huệ Ma Vương hãi hùng”. Sở dĩ trí huệ như lưỡi gươm, vì nó có diệu năng chẳng những diệt được “Tam độc”( tham, sân, si) mà còn trừ được Ma thất tình Lục dục:

        Thập tam ma diệt bằng trí kiếm,

          Dứt xong rồi vô sự thảnh thơi”.( ĐT)

        Thật hành được như thế, nhà tu sẽ tự tại giải thoát.

        2)- Đối Xử Với Thế Nhân:

        Về mặt ăn ở giao tiếp với mọi người, Đức Thầy dạy nên mở lòng rộng lượng tha thứ những ai tối tăm lầm lỗi. Thể hiện tinh thần nhân đạo, bác ái vị tha, không phân biệt màu da, chủng tộc, sang hèn hay giai cấp, hoặc người hay sanh vật, mỗi mỗi đều cư xử toàn hảo, toàn hòa an vui hạnh phúc:

        “Khắp bốn biển liên dây Hòa Hảo”.

        Và:

        “Đem nguồn sống mới cho nhơn loại,

           Để tiến, tiến lên cõi đại đồng”.( ĐT)

        3)- Hành Đạt Lý Vô Ngã:

        Vô ngã là không chấp có ta, là danh từ đối lập với chấp có ta, tức chấp ngã. Hễ có ngã là còn mê lầm sanh tử, mà vô ngã là giác ngộ, Niết Bàn. Có thể xác định rằng: đứng đầu tám vạn bốn ngàn trần lao phiền não là Ngã, còn dẫn đầu tám  vạn bốn ngàn pháp tu là Vô ngã.

        Vậy chấp ngã là gì ?

         Chấp ngã là lòng tham chấp từ xác thân, tiền của, vợ con, thân bằng, tộc họ đến đất nước đồng bào, danh dự, tước quyền, giai cấp…đều là có thật của ta rồi phân biệt hơn thua, cao thấp, rồi lo đấu tranh chiếm hữu và bảo thủ mãi mãi. Chính đó là nguyên nhân của nghiệp báo luân hồi.

        “Tâm trần tục còn phân nhơn ngã,

          Thì làm sao thoát khỏi luân hồi”.( ĐT)

        Vậy hành giả muốn thoát ly sanh tử, để tiến tới Niết bàn, trước nhứt, phải nhận rõ qua kiếp sống của con người và sanh vật đều nằm trong vòng khổ đau, bất tịnh, vô thường và vô ngã để diệt sạch lòng tham chấp.

        “Lục căn trừ tuyệt tầm hai chữ,

          Nhân ngã, sân si cũng dẹp đành”.( ĐT)

        Tu tới đây, hành giả không nên tự mãn mà phải kẹt trong vòng đối đãi: có không, chấp tâm, chấp pháp, hoặc còn thấy mình có tu, có chứng đắc. Hành giả phải rán vượt lên bước nữa là tu rèn cho được tâm bình đẳng, xem ta và mọi người cũng như vạn vật đồng nhứt thể:“Tường, bích, ngõa, lịch giai hữu Phật tánh”. Và bởi:

        “Từ không bày có, có huờn không,

        Có có không không rốt vẫn đồng”.

                (Ngữ Lục của Tuệ Trung Thượng Sĩ)

        Để sáng tỏ thêm, Đức Thầy dạy:

        Nhân ngã, ngã nhân đừng cách biệt,

          Sắc không, không sắc chớ lìa xa”.

        Nhà tu một khi xả bỏ được lòng chấp ngã thì thấy  mọi người, mọi giới và vạn vật đều bình đẳng như nhau, tất cả đều nằm trong một thể “đại ngã”, không còn phân biệt: sai khác, cao thấp, trước sau:“Trước sau tuy khác thiện căn vẫn đồng”( ĐT). Tuy đã có tu, có chứng đắc, nhưng tâm không còn chấp có tu, có chứng đắc (vô tu, vô chứng, vô sở đắc), đó tạm gọi là hành đạt lý vô ngã :

        Là bình đẳng an nhiên.

        Là Phật hóa tánh tình.

        Là Niết bàn giải thoát.

        Đức Thầy còn sách tấn tín đồ:

        Hãy rán sức thi hành sẽ có Thầy ủng hộ”.

        Đó là Ngài trợ duyên cho chúng ta có một đức tin vững chắc, một sức mạnh vạn năng để đạt đến thành quả.

        Tổng kết, bài “Lời Khuyên Bổn Đạo” là một phẩm Kinh, Đức Thầy dạy môn đồ từ bực sơ cơ Tiểu thừa đến tối Thượng thừa. Tuy thấy tiệm tu nhưng thực chứng lại là đốn. Trong đây chia làm hai phần:

        – Thứ nhứt là phần quán xét, hành giả cần nhận thức kiếp sống con người là ô trược, khổ đau và vô thường vô ngã.

        – Thứ nhì là phần thực hành, hành giả phải vẹn gìn: qui y, lễ bái, tránh Tam nghiệp ( chừa Thập ác, hành Thập thiện ) và dùng trí huệ dọn sạch Ma lòng để diệt mầm sanh tử. Chót hết là hành đạt lý vô ngã vào Niết bàn.

        IV-LƯỢC GIẢI BÀI KỆ BỐN CÂU:

        Câu 1: Đạo pháp thương hay dung với hòa.

Đức Thầy dạy người quyết tâm tu học Đạo pháp,

nên rèn luyện cho mình có được hai đức tánh: khoan dung và hòa hảo. Bởi có rộng lượng tha thứ cho những người lầm lỗi mới đem lại sự hài hòa tốt đẹp và dễ bề cảm hóa họ trở lại con đường lành.

         Câu 2: Xét người cho tột xét thân ta.

        Ngài dạy đối xử với mọi người, phải dùng tâm bình đẳng và chánh kiến mà xét đoán cho cùng tột các việc của những người đối diện và bản thân ta.

         Câu 3: Nếu người rõ phận vui lòng thứ.

        Nếu người có lỡ lầm lỗi mà biết cải hối, ta nên vui lòng tha thứ cho họ.

         Câu 4: Ta thứ được người, người thứ ta.

        Ngài dạy, ở đời mấy ai trọn vẹn không lầm lỗi. Nay ta sẵn lòng tha thứ sự lỗi lầm của mọi người thì mai chiều người khác cũng thông cảm tha thứ sự lỗi lầm của ta.

         Chủ đích của bài thi nói trên, Đức Thầy muốn dạy tín đồ tu tập cho mình có những đức tánh: khoan dung, hòa hảo, bình đẳng chánh kiến, và tôn trọng sự công bằng nhân quả, tất trên đường hành đạo ta sẽ được an vui mỹ mãn.

 

CHÚ THÍCH :

        THÂN Ô TRƯỢC: Xác thân dơ bẩn không sạch. Thân xác của mỗi con người, tuy bên ngoài bao bọc lớp da trơn láng, mịn màng nhưng bên trong chứa đầy chất ô uế. Hằng ngày, có chín lỗ (cửu khiếu) tiết ra các chất bất tịnh như: đôi mắt có ghèn, hai lỗ tai có cứt ráy, hai lỗ mũi có cứt mũi, miệng có đàm dãi, đường đại, đường tiểu, mỗi nơi đều tiết ra chất hôi hám khó chịu. Chẳng thế, còn các lỗ chơn lông cũng thường rịn chảy mồ hôi dơ nhớt, thật là:

        Thân hôi tanh muỗi ruồi đón rước,

          Thêm nhọt u ghẻ lác phong cùi.

          Đâu lúc nào toàn vẹn an vui,

          Là kiếp trược ta xin kể trước.( ĐT)

        THÂN VÔ THƯỜNG: Xác thân chẳng thường còn, bởi nó là sắc tướng, là hữu hình nên không trường tồn đặng:“Trên dương thế hữu hình tắc hoại”.( ĐT)

        TỨ ĐẠI: Bốn chất lớn, tức là: đất, nước, gió, lửa:

        Chốn Ta bà tim lụn, dầu mòn,

          Thân tứ đại của người cũng thế”.( ĐT)

        PHÙ VÂN: Đám mây nổi, chốc lát bị gió thổi bay mất. Ý chỉ cuộc đời phú quí ngắn ngủi, không bền chắc lâu dài:“Một cuộc phù vân có mấy hơi”( ĐT).

        TỘI CHƯỚNG: Nghiệp tội và báo chướng, có nghĩa như chữ nghiệp chướng ( Xem tr.45).

        LINH HỒN: Xem lại chú thích tại tr. 26.

        TỈNH NGỘ: Thức tỉnh và giác ngộ tu hành:

        Tỉnh ngộ từ đây người gặp chủ,

          Phủi trần tìm kiếm chữ Ma ha”.( ĐT)

        TRƯỜNG SANH BẤT DIỆT: Sống hoài không  chết mất. Chỉ cho cảnh Niết bàn.

        ĐÈN TRÍ HUỆ: Ánh sáng của trí huệ. Đây chỉ cho Kinh Giảng và lời lẽ của Tổ Thầy:

        Nay đuốc huệ từ bi đã rọi”.( ĐT)

        LY XUẤT PHÀM TRẦN: Lìa xa cảnh trần ai phàm tục, tức tu hành giải thoát luân hồi sanh tử. Đức Thầy hằng kêu gọi:

        “Tìm đèn trí huệ lánh thân ra,

           Lánh thân ra khỏi kẻo mang tai,

           Tầm nẻo cao siêu đến Phật đài”.

        PHỒN HOA: Cũng gọi là phiền ba, chỉ nơi đô thị nhộn nhịp, mua bán ăn chơi, đua chen theo vật chất: danh, lợi, tình. Đức Thầy có câu:

        Muốn lánh phồn hoa, lánh thị thành”.

        TỊCH TỊNH: Nơi an vui thanh tịnh và trong sạch, tức cõi Niết bàn.

        KHUÔN MẪU: Khuôn thước, mẫu rập. Chỉ cho qui luật pháp giới, chân chánh tốt lành, tất cả môn đồ Phật tử đều phải noi theo.

        CẢNH TỈNH: Báo cho biết để thức tỉnh.

        GIÁC NGỘ: Tỉnh biết, cảnh tỉnh giác ngộ là báo cho biết để tỉnh ngộ tu hành. Giác ngộ cũng đồng nghĩa với chữ Trí huệ.

        MA LÒNG: Sức mạnh vô hình của nội ma trong tâm ý con người, gồm có: ma phiền não (tham, sân, si, nhân ngã), ma thất tình lục dục (Xem lại chú thích tại tr. 109).

        KHOAN DUNG: Lòng rộng lượng hay tha thứ người lầm lỗi:“Ta thường nên tập tánh khoan dung (ĐT).

        ĐẠO PHÁP: Giáo pháp của Phật.

Bài 3.- PHẬT LÀ GÌ?

CHÁNH VĂN

        Phật giả là Giác giả. Giác giả là Tỉnh giả.

          Khi Đức Thích-Ca thành Phật thì Ngài nói pháp tứ-đế mà độ đời trước hơn các pháp, và chỉ con đường Trung-Đạo cho người hành theo.

ĐƯỜNG TRUNG ĐẠO CỦA PHẬT:

          1.- Không trưởng-dưỡng xác thịt quá ư sung-sướng như: ăn nhiều, ngủ nhiều, chẳng lo làm công chuyện, chẳng học hỏi, vì sung-sướng thái quá thì sanh nhiều dục-vọng mê đắm, làm cho trí-đạo tối tăm, không thể đạt huệ được.

           2.- Không nên hành xác hay ép xác-thịt thái quá như: phơi nắng, dầm sương, bỏ ăn, bỏ ngủ, làm lụng quá sức lực của mình, vì ép xác quá độ thì hay sanh bịnh-hoạn nhiều, người mà đa mang bịnh tật rồi, tinh-thần kém cỏi, mệt nhọc, trí-hóa lu lờ, không đủ sức học Đạo đặng.

          Nên người biết Đạo chẳng ép xác thái quá mà cũng chẳng để nó sung-suớng quá độ, chỉ ăn ngủ có chừng mực, làm việc vừa sức mình, gìn-giữ sức khoẻ mới mong học được đạo-pháp.

        Vậy, Phật chẳng buộc ai phải ăn ở khổ hạnh và cũng chẳng biểu ai ăn ở sung-sướng, chẳng ép ai ăn chay, chẳng xúi ai ăn mặn, tùy theo trình-độ và lòng nhơn của mình.

          Điều cần yếu là phải:

        Làm hết các việc từ-thiện,

         Tránh tất cả điều độc-ác,

         Quyết rửa tấm lòng cho trong sạch.  

                          Bạc Liêu, năm Nhâm-Ngũ.

                        ( SGTVTB 2004, 450-451 )

 LƯỢC GIẢI :

        Là môn đồ nhà Phật, chắc ai cũng muốn tìm hiểu Phật là gì ? Và tại sao cả thế gian đều xưng tụng Ngài là Phật ?

        Chúng ta không thể hiểu suông bằng văn tự: Phật là đấng giác ngộ và tỉnh thức, mà phải tìm hiểu xác thực cái “giác tỉnh” ấy như thế nào ?

        Tỉnh thức là từ đối lập với mê lầm. Từ trước tới nay, đa số chúng sanh còn trong mê lầm tăm tối (vô minh) nhận ngụy làm chơn:

        “Nguyên tăm tối từ hồi vô thỉ,

          Màn vô minh che mờ căn trí,

          Nên thường khi nhận ngụy làm chơn.( ĐT)

         Ngược dòng lịch sử, ai cũng biết Thái tử Sĩ Đạt Ta được sanh ra sống trong cảnh cung vàng điện ngọc, thụ hưởng các điều dục lạc, chẳng thiếu món chi. Thế mà Ngài nhận thức được cuộc sống ấy là giả dối, không thật, như phù hoa ảo ảnh, mỗi người sanh ra đều phải đối đầu với sự sống khổ, rồi tới già bịnh chết. Do đó,  Ngài mới lìa bỏ cung vui tìm đường giải thoát.

        “Đức Thích Ca xưa ở lầu đài,

           Nghiệm tứ khổ nên Ngài tầm Đạo.( ĐT)

         Đó là Ngài tỉnh thức: “lánh chốn mê lầm tỉnh cơn mộng huyễn”.

        Còn phần giác ngộ là trong thời gian tầm thầy học Đạo, Ngài không nhắm mắt tin càng, mà tin qua lý trí. Nghĩa là giáo thuyết nào không hợp chơn lý, không đưa mình ra khỏi sanh tử thì Ngài không theo. Cuối cùng Ngài tự mình tìm ra phương cách giải thoát và hành đạt đến hoàn toàn giác ngộ (Giác ngộ đồng nghĩa trí huệ) :

        “Nói cho đời hiểu Phật Thích Ca,

          Lòng tự giác xả thân tầm đạo”.( ĐT)

        Sự hiểu biết của Ngài chẳng phải như nhà bác học (thế trí biện thông), mà từ mọi hình thức bên ngoài đến cái vô hình bên trong của tâm ý chúng sanh, xuyên qua vũ trụ vạn hữu và cả ba đời (quá khứ, hiện tại, vị lai) Ngài đều thấu suốt. Do đó, khắp ba cõi sáu đường (Ba cõi: Dục giới, sắc giới, vô sắc giới) đều xưng tụng Ngài là bậc tỉnh thức. Và cũng vì vậy, Đức Thầy mới định nghĩa chữ Phật:“Phật giả là giác giả, giác giả là tỉnh giả”. Gọi tắt là đấng Tỉnh giác (Tỉnh thức và Giác ngộ hoàn toàn).

        I- CON ĐƯỜNG TRUNG ĐẠO:

        Lúc Thái tử còn tu khổ hạnh với năm người bạn tại rừng Lộc giả, một hôm Ngài đang đi bỗng bị té xỉu vì quá kiệt sức. Chừng tỉnh dậy, Ngài trông thấy một người lạ, ngồi ôm cây đờn lên dây khảy. Khởi đầu, người ấy lên dây thẳng quá nên dây đờn bị đứt, người liền trả dây dùn lại thì đàn không kêu đúng tiếng. Lần thứ ba, người ấy lên dây vừa vặn thì khảy tiếng đàn nghe tuyệt diệu. Thái tử liền ý thức: mình dốc tu cho thành Đạo để độ chúng sanh, nếu tu ép xác hành khổ thế nầy, trí huệ chưa mở, Đạo quả chưa thành mà đã bỏ thân, rồi làm sao cứu độ được ai ! Liền đó, Ngài tự phát kiến hai xu hướng sai lầmcon đường Trung Đạo. Từ đó, Ngài quyết định ăn uống bình thường lại, đoạn Ngài đến cội cây bồ-đề ngồi tham thiền 49 ngày, thì  đắc Đạo “Vô Thượng Chánh Giác”.

        Lần đầu tiên, Ngài trở lại Khổ Hạnh Lâm thuyết pháp “Tứ Diệu Đề” và chỉ con đường Trung Đạo cho anh em Kiều Trần Như nghe. Nghe xong, năm vị nầy đều chứng quả A La Hán.

        Muốn biết thế nào là Trung Đạo, cần phải tìm hiểu “hai xu hướng sai lầm”. Đó là:

        1- Trưởng dưỡng xác thịt:

        Sự sai lầm trước hết là lối tu trưởng dưỡng xác thể. Trong đó gồm có hai phần:

        a)-Thứ nhứt,  lo bồi bổ vật chất cho cuộc sống cao sang, sung sướng trong mọi sự ăn, mặc, ở quá với mức bình thường. Cách ăn, uống, ngủ, nghỉ không biết tiết chế điều độ.

        b)-Thứ nhì, nuôi tánh biếng lười, chẳng siêng năng học hỏi và làm việc. Người xưa từng bảo:“Nhàn cư vi bất thiện” (con người sống nhàn lạc sung sướng quá thì hay làm việc chẳng lành). Đúng thế, nếu người tu không siêng năng làm việc, cứ lo ăn uống bồi dưỡng cho xác thể quá sung mãn, thì lòng tham lam dục vọng càng nhiều, khiến cho tinh thần bạc nhược, trí huệ lu mờ, không thể nào tu hành mau sáng suốt được.

        2- Ép xác hành khổ:

        Sự sai lầm thứ hai là lối tu ép xác hành khổ, gồm có hai phần nhỏ:

        a)-Một là không ăn, không ngủ hoặc ăn ngủ quá ít.

        2)-Hai là làm việc thật nhiều, chẳng kể mưa nắng, quá sức chịu đựng của xác thể. Bởi xác thân là vật chất, cần phải có ăn uống mới đủ chất dinh dưỡng nuôi cơ thể. Ví như cái máy, có đủ xăng nhớt mới chạy được. Nếu ta cung cấp thức ăn cho cơ thể không đủ, hoặc làm việc quá sức, thì xác thân phải lao tổn, hay nay đau mai ốm. Hễ xác thân bệnh tật rồi thì tinh thần cũng bị yếu kém theo, không còn đủ sức dõng mãnh, hăng hái để tu học Phật pháp.

        II- THẾ NÀO LÀ TRUNG ĐẠO ?

1-   Chiết trung tránh sai lầm :

        Đã nhận rõ hai xu hướng sai lầm vừa kể trên, Đức Thầy dạy môn đồ không nên tu theo hai lối cực đoan ấy mà phải chiết trung nó lại. Hành giả không siêng năng làm việc, học hỏi thì không được; bằng làm việc nhiều quá cũng không xong. Ăn ngủ ít bị lao tổn thân xác, trí lực yếu kém. Còn ăn ngủ quá dư thì sanh biếng lười, mê tối. Cho nên, nhà tu nên ăn uống điều độ, lao động vừa với năng lực của mình, để bảo vệ sức khỏe mới có đủ tâm năng, trí lực tu học đạo pháp.

2-   Thực hiện đúng con đường Trung Đạo:

        Để cho sự tu hành đúng theo con đường Trung Đạo, mà xưa kia Đức Phật đã phát minh và tu đắc Đạo, hôm nay Đức Thầy cũng dạy tín đồ như thế. Nghĩa là Ngài chẳng hề bắt buộc ai phải tu lối ép xác hành khổ và cũng chẳng bao giờ bảo môn đồ nào sống cảnh sung sướng, cho đến vấn đề ăn chay, ăn mặn cũng thế.

        Trên đường tiến đạo, nhà tu không nên đi mau quá (thái quá) mà cũng không bước chậm quá (bất cập). Ví như đoàn người leo núi đi mau quá thì mệt và hay vấp té nguy hiểm; bằng đi chậm quá thì không kịp đoàn, phải từ từ mà bước một cách thận trọng, tất sẽ được an toàn.

        Đức Thầy cũng không xúi biểu ai phải ăn chay kỳ cố định, hay ép buộc ai phải ăn chay trường. Ngài để tự nhiên cho trình độ giác ngộ và lòng nhân của mỗi tín đồ, tiến lên theo khả năng từng người:

        Trong bá gia nhiều ít lòng chay”.

        Và:

        “Chay được tánh chay tâm mới quí”.( ĐT)

        Nhưng có điều quan trọng là mỗi hành giả phải thi hành ba điều cần yếu sẽ nói sau đây.

        III- PHÁP TU CẦN YẾU:

        Sau khi Đức Phật Thích Ca tịch diệt ít lâu, một hôm Đại Đức Ca Diếp kêu Tôn giả A Nan hỏi:

        -Tôi có nghe trong “Tăng Nhứt A Hàm Kinh” Phật thuyết gồm 37 phẩm trợ đạo, có chăng ?

        Tôn giả A Nan đáp:

        -Bạch Đại Đức ! Khỏi cần đến bộ “Tăng Nhứt A Hàm”, chỉ một bài Kệ bốn câu cũng đủ bao hàm 37 phẩm trợ đạo, bài Kệ ấy như vầy:

        “Chư ác mạc tác; Chúng thiện phụng hành.

         Tự tịnh kỳ ý; Thị chư Phật giáo”.

         (Điều ác đừng làm, Điều lành gồm làm.

         Tự lắng lấy lòng, Phật dạy như vậy !)

        Ngày nay Đức Thầy tóm tắt bài Kệ ấy, thành ba câu cần yếu là: Làm hết các việc từ thiện. Tránh tất cả điều độc ác và Quyết rửa tấm lòng cho trong sạch.

1-   Làm hết các việc từ thiện:

        Là làm toàn những việc hiền lành, nhơn đức có ích lợi cho mọi người và vạn loại chúng sanh; tức là lo tu “mười điều lành” để trả xong nghiệp nợ và tịnh được Tam nghiệp. Có đáp đền được “Tứ Ân” mới trả xong phần ân nợ và tạo được vô lượng phước đức:“Thượng báo tứ trọng ân, Hạ tế tam đồ khổ”.

2-   Tránh tất cả những điều độc ác:

        Là tránh hết những việc làm có thương tổn đến sanh mạng, danh vị và hạnh phúc của muôn loài, tức là giữ Tám điều răn cấm, đừng cho vi phạm và tránh “Tam nghiệp”, chừa bỏ mười điều ác. Chính những sự đó là hột giống của luân hồi sanh tử, là nghiệp nhân sanh ra mưôn ngàn tội lỗi khác. Người tu có chừa được mười điều ác mới dứt được “duyên trần cấu” và gốc tội lỗi tiêu tan, thoát khỏi nghiệp báo luân hồi. Cho nên Đức Thầy bảo: “Chúng sanh tịnh được tam nghiệp mới mong về cõi Phật. Và:

        “Ác trừ xong hiện ra thiện nghiệp,

          Lóng nguồn chơn Phật tiếp dẫn cho”.

3-   Quyết rửa tấm lòng cho trong sạch:

        Bởi tâm ý của mỗi chúng sanh thường nghĩ tưởng việc nhơ xấu, tà ác nên bị vô minh, dục vọng chi phối, như một biển nước đầy cặn cáu. Đức Thầy cho biết cuộc đời của chúng ta đang sống đây gọi là ác thế ngũ trược (Kiến trược, kiếp trược, chúng sanh trược, phiền não trược, mạng trược):

        Biển hồng trần lao lý diệu vơi,

          Xô đẩy mãi trong vòng ngũ trược”.

        Hành giả muốn ra khỏi vòng ngũ trược để về nơi thanh khiết, tất phải:“Quyết rửa tấm lòng cho trong sạch”. Cho nên Đức Thầy từng kêu gọi:“Người khôn mau sớm rửa lòng bợn nhơ.

        Hễ lòng hết bợn nhơ phiền não thì cảnh thanh khiết và Phật tánh hiện bày chớ chẳng phải tìm nơi nào khác:

        Nhàn thanh tìm kiếm, kiếm nơi tâm,

           Phật cũ ngày xưa hãy rán tầm”.( ĐT)

        Vậy muốn rửa tấm lòng cho trong sạch, ta phải làm sao ?

        Theo yếu chỉ PGHH, có hai cách rất đơn giản và quan thiết là hành Bát Chánh Đạo và Niệm Phật. Vì trong Bát Chánh Đạo, có 6 điều chánh thuộc về tư tưởng:“Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Tinh Tấn, Chánh Mạng, Chánh Niệm và Chánh Định”. Nếu ai thực hành được sáu điều chánh đó thì lòng sẽ trong sạch, vào cảnh giới Niết bàn:“Thiền Định đặt làm thể, trí tuệ đặt làm mạng, linh hồn nhập liên hoa, siêu sanh vào cõi Niết bàn”.

        Còn pháp niệm Phật là để đối trị vọng tâm phiền não; hễ tưởng nhớ Phật thì không còn tưởng nhớ việc xấu xa tà khúc hay tham sân si…Nếu niệm Phật được liên tục thì lòng luôn trong sạch thanh tịnh mà vào cõi “Thường Tịch Quang Tịnh Độ”.

        Thêm nữa, hành giả có thi hành được ba điều cần yếu vừa kể trên, tất được trọn lành, trọn sáng, tức thân tâm thanh tịnh, công đức viên dung. Cho nên Kinh Phật gọi đó là Tứ Cú Kệ và gồm nhiếp 37 phẩm trợ đạo. Có thể nói ba điều cần yếu bao gồm cả tám vạn bốn ngàn pháp môn. Vì tu đến đây hành giả diệt tận gốc phiền não: tham, sân, si nên gọi là pháp tu quan trọng và cấn yếu hơn hết.

        Tổng kết bài “Phật là gì ?”, trước hết Đức Thầy định nghĩa chữ Phật và vạch ra con đường Trung Đạo, đúng theo chân truyền của Đức Phật Thích Ca. Chính nó là con đường tắt nhứt và đưa đến “Tối Thượng Nhứt Thừa”, hành giả không thiên chấp hai bên: hành khổ hay sung sướng, hoặc có không, động tịnh hay nhân ngã, mặn chay…

        “Tu hành nào luận mặn chay,

          Miễn tâm thanh tịnh gặp ngày an cư”.( ĐT)

        Sau cùng, Ngài dạy pháp tu quan yếu nói trên, nếu ai kiên trì tu tập sẽ được thành Đạo giải thoát.

 CHÚ THÍCH :

        THƯỜNG TỊCH QUANG: Cũng gọi là Pháp tánh Tịnh Độ, là một trong năm điều thanh tịnh an vui. Có nghĩa người tu khi được vào Tịnh độ thì tâm hồn luôn được an nhiên trong sáng, không còn bị phiền não trược chi phối. Kinh xưa đã bảo: hành giả khi vào được Tịnh độ thì năm điều uế trược sẽ đổi lại năm điều thanh tịnh an vui, như:

        1-Kiếp trược chuyển thành “Thanh Tịnh Hải Hội”.

        2-Kiến trược chuyển thành “Vô Lượng Quang”.

        3-Phiền não trược chuyển thành “Thường Tịch Quang”.

        4-Chúng sanh trược chuyển thành “Liên Hoa Hóa Thân”.

        5-Mạng trược chuyển thành “Vô Lượng Thọ”.

        TỨ ĐẾ: Cũng gọi là Tứ Diệu Đề. Có nghĩa bốn pháp thẩm xét mầu nhiệm chơn thật, gồm có: Khổ đề, Tập đề, Diệt đề, Đạo đề.

        “Tứ diệu đề ai có mến ưa,

          Thì Lão cũng kể sơ thêm nữa”.( ĐT)

        TRUNG ĐẠO: Cũng gọi là Đường Trung Đạo. Có nghĩa con đường chính giữa. Có hai thuyết giải:

1- Theo Khổng Giáo: Trung Đạo là trung dung. Có nghĩa không thái quá, không bất cập, giữ mực bình thường ở giữa thì mọi việc đều được thích trung “Thánh Nhơn ghi sách Trung Dung”( ĐT).

2- Theo Phật Giáo: Đạo Trung là con đường Đạo, là Đạo trung hòa. Có nghĩa không thiên chấp, như: ép xác hành khổ hay sung sướng hoặc chấp thường, chấp đoạn, chấp đối đãi đôi đầu: có không, động-tịnh, lành-dữ, tới-lui, ngã-nhân, vui-buồn, thương-ghét,…và không duyên theo thất tình lục dục. Lìa cả hai bên (là đối đãi) mà phải xem sự lý, dung thông, sắc không đồng nhứt thể:

        Thắng thất tình giữ vẹn Đạo Trung,

            Trừ lục dục chớ cho ô nhiễm.( ĐT)

        DỤC VỌNG: Lòng tham vọng ham muốn vật chất: danh, lợi, tình v.v…Đức Thầy dạy:

                “Phải gìn dục vọng lòng tà,

              Đừng chìu theo nó vậy mà hư thân.( ĐT)

        MÊ ĐẮM: Say mê đắm đuối theo lợi danh tài sắc, khó dừng lại được như người bị bịnh ghiền.

        TRƯỞNG DƯỠNG: Nuôi lớn xác thể.

        ĂN CHAY: Xem lại chú thích chữ nầy trong bài Ăn chay, tr. 175-176.

Bài 4.- CHƯ PHẬT CÓ BỐN ĐẠI ĐỨC

CHÁNH VĂN

        Chư Phật có bốn đại-đức. Vậy ta niệm danh-hiệu Phật để nhớ Phật và rán sức làm theo bốn đại-đức của Phật đặng ngày sau chứng quả như Ngài. Bốn đức ấy là:

          1.- Đức từ: Phật đối với chúng-sanh như mẹ với con, lúc nào cũng lo-lắng đến, hết lòng dìu-dắt, dạy- dỗ, không nỡ để chúng-sanh sa vào đường tội lỗi mà chịu khổ não.

          2.- Đức bi: Nếu chúng-sanh nào dạy-dỗ chẳng nghe, làm điều độc-ác để phải tội thì Phật chẳng vì thế mà ghét bỏ, lại thương xót không cùng.

          3.- Đức hỉ: Thường thường an vui mà làm những việc lành. Dầu gặp hoàn-cảnh trái-nghịch cũng chẳng vì thế mà sanh lòng buồn-bã.

          4.- Đức xả: Ngài chẳng chấp một pháp nào trong thế-gian, sẵn lòng lìa xa các nghiệp tiền-trần, tha-thứ hết thảy những ai tối-tăm lầm-lỗi, chẳng còn vướng- víu chi với cuộc lợi-danh, tài-sắc, nhìn cõi đời chẳng bao giờ sanh lòng luyến ái.

          Vậy ta niệm Phật, phải biết đại đức của chư Phật và làm sao cho ta đắc được bốn đức ấy.

        Ta cũng nên bố-thí, nhẫn-nhục, trì-giới (để độ tham, sân, si).

          Còn phương-pháp niệm Phật là để trừ cái vọng-niệm của chúng-sanh, vì trong tâm của chúng-sanh niệm niệm mê-lầm chẳng dứt; vì cái vọng-niệm về việc thế-trần ấy mà không cho cõi lòng an-lạc, phiền-não ngăn che, chơn tâm mờ ám. Nên nay, hễ thành tâm niệm Phật thì nếu được một niệm Phật ắt lìa được một niệm chúng-sanh, mà niệm niệm Phật thì lìa tất cả niệm chúng-sanh. Cho đến khi nhứt tâm bất loạn, chng ấy vọng niệm chúng-sanh đã dứt thì lòng ham muốn và các tình-dục còn đâu mà nảy sanh ra được ?

          Nên niệm Phật là niệm cái bản-lai thanh-tịnh của Phật cho lòng của mình nương theo đó mà được thanh-tịnh và chẳng còn trược-nhiễm trần-ai.

          Cần tu thập thiện thì sự niệm mới có hiệu quả. Tu thập thiện, dứt được thập ác (cũng gọi là tịnh tam nghiệp).

                                      Bạcliêu, năm Nhâm-Ngũ.

                                           ( SGTVTB 2004, 452-453 )

 

                                          LƯỢC GIẢI :

        Bài pháp luận nầy Đức Thầy sáng tác vào năm Nhâm Ngũ (1942), lúc Ngài đang lưu trú tại nhà ông Ký Giỏi (Bạc Liêu). Ngài viết theo thể văn xuôi lối thuyết giáo.

        Đức Thầy viết bài nầy không đề tựa, sau đó Ban Sưu Tập căn cứ vào mấy chữ đầu, mới tạm đặt cho cái tiêu đề là “Chư Phật có bốn đại đức”. Song nếu nghiên cứu kỹ nội dung của bài, thì đây là Ngài dạy phương cách niệm Phật để thành Phật. Nên có thể gọi là “Niệm Phật Thật Tướng” hay “Niệm Phật Tam Muội”.Vì niệm Phật theo cách nầy sẽ trực nhận “Duy tâm Tịnh độ, tự tánh Di Đà”, như Kinh Duy Ma đã bảo:“Tâm tịnh tức quốc độ tịnh”.

        Kinh Phật thường gọi bốn đại đức là “Tứ Vô Lượng Tâm”. Xưa kia Đức Phật thuyết phẩm Kinh nầy để dạy hành giả tu thành Phật, hay nói cách khác là ai muốn thành Phật phải tu bốn đại đức. Ngày nay Đức Thầy cũng xác định:“Công đức Phật từ bi vô luợng”. Bởi bốn đại đức: Từ, Bi, Hỉ, Xả rộng lớn vô biên, không thể lường tính được, nên gọi là đại đức và vô lượng. Vì thế, qua bài Pháp luận nầy Ngài dạy môn đồ niệm Phật phải hiểu và hành theo hạnh Phật, tức là rèn tập cho mình có được bốn đại đức ấy như chư Phật, bởi Ngài từng dạy:

                “Học câu hỉ xả đại từ,

            Nêu gương nghĩa sĩ dạ tư chớ gần”.

        Do đó, Ngài định nghĩa chữ niệm Phật là để tưởng nhớ Phật, tức nhớ hạnh từ, bi, hỉ, xả của Phật hầu thực hành theo và được chứng quả như Ngài.

        I- BỐN ĐẠI ĐỨC:

          1)- Đức Từ:

        Cũng gọi là Tâm Từ vô lượng. Đức Thầy dạy môn đồ, hãy rèn tập cho mình có được tình thương bao la bình đẳng, chẳng những đối với loài người mà với cả vạn loại chúng sanh:

        “Tình yêu mà chẳng riêng ai cả,

            Yêu khắp muôn loài lẫn chúng sanh”.( ĐT)

        Người tu tâm từ không luận hoàn cảnh hay thời gian, mà bất cứ lúc nào cũng tìm phương cách làm cho chúng sanh bớt tội khổ và được an vui như tình cha mẹ đối với các con. Việc làm nầy dầu cho nhiều gian khổ hay cần phải hy sinh đến cả tánh mạng, hành giả cũng an vui thi thố. Như tiền thân Đức Phật đã từng hiến thân cho cọp đói và hóa kiếp làm cá kình cho dân chúng ăn, bớt đói khổ…Đức Thầy từng thốt:

                “Thân ta dù lắm đoạn trường,

           Cũng làm cho vẹn chữ thương nhơn loài”.

        Và:

        “Lòng từ bi chẳng quản nắng mưa,

          Xông thuyền giác rước đưa sanh chúng”.

        Tóm lại, tâm từ là lòng thương rộng lớn, không hề biệt phân nhân ngã, thường mang lại sự an vui cho tất cả chúng sanh. Thế nên khi lòng từ ban rải đến đâu, thì sự giết hại, hận thù, oán ghét đều tiêu tan tức khắc:

          “Việc hung ác hễ vừa thấp thoáng,

          Chữ từ bi ta diệt nó liền.

          Sự oán thù đáp lại chữ hiền,

          Thì thù oán tiêu tan mất hết”.( ĐT)

        2)- Đức Bi:

        Như đã biết, tâm từ là thường ban vui, còn tâm bi là luôn luôn cứu khổ (Từ năng dữ nhứt thiết chúng sanh chi lạc; Bi năng bạt nhứt thiết chúng sanh chi khổ). Cũng vì mục đích ban vui cứu khổ ấy mà xưa Thái tử Sĩ Đạt Ta quyết chí lìa quách thành, thê tử để tìm ra chánh Đạo nhiệm mầu, cứu khổ chúng sanh:

        “Mình vàng Thái Tử ngôi còn bỏ,

          Vóc ngọc Đông Cung tước phế liền”.

        Và:

        “Bác ái xả thân tầm Đạo chánh,

          Độ người lao khổ dạ không phiền”.( ĐT)

        Cho đến chư Phật ba đời cũng có tâm Bi như vậy. Đức Thầy hiện nay cũng vì lòng bi mẫn, thấy chúng sanh đang ngụp lặn trong bể trần tội khổ, nên Ngài chẳng nỡ an ngồi nơi ngôi vị, hưởng quả Bồ đề trường thọmà phải lâm phàm, khai thông Đại đạo, để “Rước đưa sanh chúng rời bể ái”. Và:“Ta chịu khổ, khổ cho bá tánh”. Ngài còn phát đại thệ:

        “Nếu chừng nào khai thông Đại Đạo,

          Đuốc từ bi rọi khắp cả nhơn gian.

          Bể trầm luân khô cạn sáu đàng,

          Tăng sĩ mới trở về nơi thanh tịnh”.

        Đại để tâm Bi của chư Phật và Đức Thầy có khác hơn người thường. Đối với bất cứ hạng người nào, các Ngài vẫn xót thương, cứu khổ đồng đều, dù kẻ biết nghe lời hay không, chẳng hề có sự ghét thương, nhân ngã:

        Giàu sang nghèo khó cũng người,

           Nên ta thương hết dầu cười hay khen.( ĐT)

        3)- Đức Hỉ:

        Tâm Hỉ là lòng an vui thường nhiên bất biến, không phải như sự mừng vui trong thất tình. Tâm Hỉ ban rải đến đâu, phiền não tiêu tan đến đó, như gió thổi mây tan huệ nhựt hiện bày.

        Song muốn được kết quả như trên, hành giả phải có một lối sống “Lạc đạo an bần, xả thân tu tỉnh”. Lần đến “Tánh thuần lương vẻ mặt vui tươi”. Và nếu trên con đường tiến tới mục đích, dầu có gặp nhiều chông gai thử thách ta cũng đừng phiền lòng, nao núng, luôn luôn kiên nhẫn vượt qua tất được toại nguyện. Đức Thầy đã nêu lên ý chí đó qua một đoạn giảng:

          “Bể trần sóng cuộn lao xao,

          Xông thuyền Bát Nhã lướt vào một phen.

          Quản chi lực kém tài hèn,

Dù đời bạc đãi ngọn đèn cứ nêu.

Soi từ đài các xá liều,

           Cho người trụy lạc biết điều nghĩa nhân”.

        4)- Đức Xả:

        Tâm Xả là lòng buông bỏ, không vướng mắc. Chư Phật có buông bỏ nên được giải thoát an vui, chúng sanh vì còn chấp nê, vướng bận nên còn sanh tử luân hồi.

        Để rèn luyện tâm Xả, đời sống của người tu tuy còn phải va chạm với vạn pháp trong thế gian, từ hữu vi đến vô vi, từ thế gian đến xuất thế gian, từ lành đến dữ, v.v…nhưng lòng chẳng để nhiễm ô, kẹt mắc vào pháp nào. Nhận rằng ai cũng có gây tạo ít nhiều nghiệp duyên không tốt từ trước, như: danh, lợi, tình v.v…Giờ đây, đang bị nó trói trăn, sai khiến, nhưng hành giả phải sẵn sàng buông bỏ.

        Thuở xưa, lúc Đức Phật còn trụ thế, thuyết pháp độ sanh, có một thầy Bà La Môn tên Mông-Tây-Đen rất kính trọng Phật. Hôm nọ ông dùng thần thông nhổ hai cây bông khổng lồ, để nguyên cả cành rễ hoa lá, nắm chặt mỗi tay một cây, bay đến xin dâng cho Phật.

        Đức Phật gọi tên Ông, Ông : “Dạ !”

        Phật liền bảo:“Buông xả xuống đi !”

        Thầy Bà La Môn liền bỏ cây hoa bên tay trái xuống trước mặt Phật.

        Phật lại bảo:“Buông xuống nữa đi !”

        Thầy Bà La Môn liền bỏ luôn cây hoa bên tay mặt.

        Nhưng Phật lại bảo tiếp:“Hãy buông nữa đi !”

        Thầy Bà La Môn liền bạch hỏi:

        – Tôi còn cái gì nữa đâu mà Phật bảo phải buông bỏ nữa ? Vậy Phật muốn dạy tôi điều gì ?

        Phật đáp:

        – Ta không hề bảo ngươi buông hết mấy cây hoa, mà ta bảo ngươi bỏ ở đây là bỏ hết sáu căn, sáu trần và sáu thức. Khi người bỏ được hết, đến không còn cái gì nữa để bỏ là lúc người thoát ly tất cả sự ràng buộc của sanh tử luân hồi.

        Thời nay, Đức Thầy dạy môn đồ tu tâm Xả cũng thế:

        Cõi hồng trần các việc mến ưa,

            Sự giả tạm ta nên rứt bỏ”.

        Còn đối với những người gây khổ cho ta, thì ta nên rộng lượng tha thứ tất cả, lúc nào cũng an nhiên bình đẳng, xem thân tâm mọi người và vạn vật (vạn pháp) cũng như thân tâm ta (vạn vật đồng nhất thể).

        Hành được tâm Xả, hành giả chẳng còn chấp tâm, chấp pháp, nhân ngã, hận thù, có không, cao thấp. Kinh xưa đã nói:“Hạnh vô hành hạnh, tu vô tu tu”.(Làm được các hạnh lành mà không chấp mình có hành, tu các pháp thiện mà không thấy mình có tu). Đức Thầy nay đã dạy:

        Chúng sanh mê nên đem pháp thuyết,

           Giải thoát rồi pháp bất khả dùng”.

        Đại lược hành giả có tu được đức xả thì lòng dính mắc, nhiễm ô không còn, cho đến cái tâm không dính mắc, ô nhiễm cũng không thấy có.

        Vô pháp tướng mới là thiệt tướng”.

        Tóm tắt, nhà tu khi thực hành được bốn đại đức: Từ, Bi, Hỉ, Xả tức chứng được ba điều giác: tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn. Ấy là thành Phật tại thế gian.

          II- ĐỘ THAM SÂN SI:

        Đức Thầy dạy người niệm Phật muốn trở về tánh bản lai thanh tịnh, ngoài việc tu tập bốn đại đức: Từ, Bi, Hỉ, Xả , còn cần phải áp dụng ba phương pháp: bố thí, trì giới, nhẫn nhục để độ tham, sân, si. Vì tham, sân, si là nguồn gốc sanh ra ma trược phiền não:“Tà kiến tam độc thật Ma Vương”(Kinh Pháp Bửu Đàn). Tại sao không gọi là “diệt” mà lại gọi là “độ” ?

        Vì, phiền não tức Bồ đề, chúng sanh tức  Phật. Xưa, chư Phật cũng từ tâm chúng sanh (tham, sân, si) tu thành Phật, nếu diệt nó lấy đâu làm đối tượng tu hành. Cho nên Đức Thầy mới dùng chữ độ, tức là chuyển hóa từ tà ra chánh, từ phiền não ra Bồ đề, từ dữ ra lành, từ mê ra giác ngộ, …

        1)- Bố thí độ Tham:

        Dùng hạnh Bố thí để độ lòng Tham là nhằm chuyển lòng tham lam trở thành lòng cứu giúp, bởi tánh tham lam ích kỷ là nguyên nhân sanh ra tội khổ và sanh tử luân hồi. Lòng ham muốn ích kỷ là con đường dắt người vào chốn tam đồ (Địa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh). Còn Bố thí là chiếc thuyền giúp ta vượt sông mê, sang bờ giác. Thế nên ai muốn giải thoát an vui, phải chuyển hóa lòng tham lam ích kỷ ra bố thí:

        Muốn trừ tham phải liệu cách nào,

           Phải bố thí diệt lòng ích kỷ”.( ĐT)

        Khi nhìn thấy người gặp khổ nạn, thiếu ăn thiếu mặc, không nhà ở, thuốc uống, ta biết khởi lòng thương xót và trợ giúp từ tinh thần lẫn vật chất (tài thí, pháp thí và vô uý thí), thế thì có lý nào ta muốn bao gồm vật sở hữu của kẻ khác về làm của mình. Nhờ đó, lòng tham lam tan dần cho đến khi dứt sạch.

        Hơn nữa, người có lòng bố thí đã rõ vạn pháp trong thế gian, như: của cải, gia tài, vàng bạc,… là của “năm  nhà”, chớ không thật của ta. Truyện kể như sau:

        Thuở xưa, có một nhà Vua cai trị một nước lớn. Sau khi du ngoạn khắp nước, vua thấy dân chúng trong nước rất giàu sang, có nhiều gia đình xấp xỉ với vua quan. Vua động lòng tham bèn ra lịnh buộc mỗi nhà dân phải hiến một phần ba tiền của vào công quỹ quốc gia.

        Lịnh ấy ban ra, dân chúng đều nhôn nhao, ta thán ! Song vì lịnh Vua…nên cuối cùng ai cũng đem nạp tiền theo lịnh. Riêng có một cư sĩ nọ chở hết tài sản đem nạp cho Vua. Vua ngạc nhiên, hỏi:

        -Trẫm chỉ nhận một phần ba thôi, tại sao ngươi đem nạp hết thế nầy ?

        Vị Cư sĩ trả lời:

        -Vì hạ thần nghĩ của cải trong thế gian là của năm nhà chớ không phải của riêng một ai !

        -Ông phải giải thích cho trẫm rõ !

        -Tâu bệ hạ !

        Thứ nhứt là của nhà lửa: Ví như tài vật của hạ thần như thế nầy, nếu gặp một cuộc hỏa hoạn thì bao nhiêu cũng làm mồi cho ngọn lửa.

         Thứ nhì là của nhà lụt lội: Dù gia tài sự nghiệp nhiều thế nào đi nữa, hễ gặp trận bão lụt thì cũng bị cuốn theo dòng nước.

        Thứ ba là của nhà giặc cướp: Hiện giờ dù tài vật có nhiều đến đâu, nhưng gặp thời giặc cướp dấy loạn thì ai cũng chỉ còn hai bàn tay trắng.

        Thứ tư là của nhà con cháu phá tan: Nếu gia đình nào có con cháu biết hiếu thuận từ hòa là có phước, bằng gặp đám con ngỗ nghịch, lười biếng ăn chơi, sa ngã theo tửu, sắc, tài, phiến (khí), quậy phá lung tung thì chỉ qua một thời gian, tiền của ấy cũng phải tiêu sạch.

        Thứ năm là của nhà xung công: Như tài vật của dân chúng trong nước mình đây, may gặp Bệ hạ là Vua nhơn từ, chỉ ra lịnh xung công một phần ba là phước. Bằng như rủi gặp ông Vua ác đức ra lịnh xung công toàn bộ, thì dân chúng cũng phải đành chịu chớ sao ?

        Do vậy, mà tôi quyết định mang tài vật nạp hết cho Bệ hạ.

        Nghe vị Cư sĩ nói xong, Vua suy nghĩ giây phút, liền đứng dậy ban khen Cư sĩ: “Ông thật khéo cảm hóa được lòng ham muốn của ta”. Rồi nhà vua truyền bãi bỏ vụ lịnh ấy, tài vật của ai hãy đem về nhà nấy ! Vua bắt đầu tu chỉnh thân tâm và giáo hóa toàn dân hành thiện, tránh ác. Chẳng bao lâu nước của Ông trở nên phú cường an lạc. Đây là một tấm gương sáng trong “Tiền Thân Đức Phật”.

        Còn từ thân  bằng quyến thuộc đến cái xác thân của ta cũng không giữ được lâu bền, huống chi là mọi sự vật  ở ngoài thân:

        Tâm chánh niệm thường thường suy nghĩ,

          Vật ở trần như bọt nước làn mây.

          Thân ta còn rày đó mai đây,

          Của ấy cũng khi tan khi hiệp.( ĐT)   

        Thế nên nhà tu lúc nào cũng sẵn sàng đem vật sở hữu của mình đổi lấy cái chơn không bất hoại, như Đức Thầy đã khuyên:“Hãy tìm kiếm cái không mới có”. Ấy là “bố thí vô trụ tướng”, tức là thí mà không kiến chấp mình có thí và người nhận cũng không thấy có danh tướng hay vướng mắc gì cả :“Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”.

        2)- Nhẫn nhục độ Sân:

        Ý nầy muốn nói cần chuyển lòng Sân hận trở thành nhẫn nhục. Bởi tánh nóng giận thường chuốc lấy nhiều tai hại:

        a). Bên ngoài thì gây thù kết oán lưu truyền nhiều kiếp đoạn tuyệt tình nghĩa giữa bà con thân hữu, lại còn sanh muôn ngàn tội lỗi như Bà Thanh Đề trước kia…Kinh Phật thường nói:“Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai”(một tư tưởng nóng giận nổi lên thì trăm muôn cửa tội chướng đều mở rộng).

        Đức Thầy nay cũng diễn tả:

        “Tánh sân nộ thường làm bạo ngược,

          Nên loài người ở cõi thế gian.

          Giận hờn nhau thù oán dẫy tràn,

          Mới có cuộc tranh tài đấu lực.

          Hơn tự đắc khoe khoang dõng sức,

          Phải bị người hềm khích ghét ganh.

          Thua hổ ngươi làm chuyện bất lành,

          Gây nghiệp dữ oan oan tương báo”.

        b). Bên trong thì làm cho trí huệ tối tăm, “giận mất khôn” và bị nó đốt cháy bao nhiêu công phu tu tập của mình từ trước. “Nhất niệm sân tâm chi hỏa, năng thiêu vạn khoảnh công đức chi sơn” (Một đốm lửa lòng nóng giận phát lên đốt cháy cả rừng núi công đức của mình đã bòn mót từ trước).

        Vì thế, Đúc Thầy dạy: hãy lấy đức tánh nhẫn nhục để độ rổi lòng sân hận. Nhẫn nhục là tâm biết nhịn chịu sự xấu xa hèn kém do kẻ khác trút lên cho mình, hoặc họ dùng võ lực đánh đập đàn áp hay lời lẽ nặng nhẹ mắng nhiếc ta, ta cũng cố gắng nhẫn nhục (nhịn) cho kỳ được. Đức Thầy thường khuyến tấn:

        Và nhẫn nhịn đừng ham tranh luận,

           Khỏi mất lòng tất cả mọi người”.

        Vào mùa Xuân năm 1940, trên đường du sơn, Đức Thầy có nghỉ đêm tại Điện Đá Dựng (Thiên Cẩm Sơn). Ngài có kêu hỏi một số tín đồ cùng đi:

        -Nếu có người đem cho mình một món đồ mà mình không nhận thì họ làm sao ?

        Một người trong số tín đồ đứng lên trả lời:

        -Nếu mình không nhận, chắc họ đem về, phải không Thầy ?

        Ngài đáp:

        -Đúng thế ! Nếu người ta dùng lời nặng nhẹ nói xấu, hoặc chửi mắng hay đánh đập, hiếp đáp mà mình nhịn được thì bao nhiêu nghiệp quả, người đó tự mang lấy. Các ông nên rèn tập đức tánh nhẫn nhịn.

        Thuở xưa, Đại tiên Xằn-Đề Ba-La nhờ áp dụng phương pháp nhẫn nhục mà cảm hóa được vua Ca-Lợi và quần thần hồi tâm hướng thiện, và nhiều kiếp sau ông thành đạt ngôi Phật quả.

        Lại nữa, gốc sân hận thường ăn sâu trong tâm thức. Hành giả muốn độ tận nó phải nhẫn luôn cả tâm ý, hận thù độc ác, vọng nhiễm trần ai và sự đói đau lạnh nóng. Hãy nhẫn nó lúc mới khởi nghĩ chớ đừng để phát ra lời nói, việc làm rồi mới nhẫn. Cũng như diệt cỏ, hãy diệt từ lúc mới nẩy mầm, chớ để nó đâm chồi nẩy tược mà khó trừ. Đức Thầy dạy:

        “Nhẫn tâm nhựt nhựt thường an lạc,

          Nhẫn tánh niên niên đắc bảo truyền.

          Nhẫn đức bình an tiêu vạn sự.

          Nhẫn thành phú quới vĩnh miên miên”. 

        Tóm lại, nếu mỗi hành giả nhẫn được theo các phương cách vừa kể trên, thì gốc sân hận không còn và chuyển thành đức nhẫn vô sanh (tức Vô Sanh Pháp Nhẫn, trọn đủ ba phần: Sanh nhẫn, Pháp nhẫn và Vô sanh pháp nhẫn.)

        3). Trì giới độ Mê Si:

        Ý nầy muốn nói cần chuyển Mê Si trở thành Giới, Định, Huệ: Mê si là tối tăm lầm lạc, không sáng tỏ. Nó đồng nghĩa với vô minh. Sự mê tối nầy vốn sẵn có từ hồi vô thỉ:

        Ác thứ mười đoạn chót mê si,

          Nguyên tăm tối từ hồi vô thỉ.

          Màn vô minh che mờ căn trí,

          Nên thường khi nhận ngụy làm chơn”.( ĐT)

        Bởi tối tăm mê dốt thường hay nhận ngụy làm chơn, tà chánh lộn lầm, nhận xét mọi việc không đúng sự thật (chơn lý). Như bốn  người mù rờ một con voi…Chính mê si là đầu mối của tà kiến, là gốc sanh ra mười điều ác và luân hồi sanh tử. Cho nên Đức Thầy dạy môn đồ phải trì giới để độ nó. Tại sao thế ?

        Vì mê si là đối lập với trí tuệ, tức là tối đối với sáng. Nó đồng một thể chất, như trong cái nhà ban đêm không đốt đèn thì tối, bằng ông chủ nhà đốt đèn lên tất nhà sáng. Tâm của mỗi chúng sanh cũng thế, nếu có mê si thì không có trí huệ, và ngược lại, có trí huệ thì mê si chẳng còn.

        Vậy, muốn có trí huệ thì tâm của hành giả phải định, và muốn có định thì phải trì giới. Hiểu xuôi lại là nhờ trì giới tâm mới được định, tâm định thì trí huệ hiện bày. Đây là pháp tu Giới-Định-Huệ mà Kinh xưa thường gọi pháp Tam học: dùng Giới, Định, Huệ để trừ tam độc: tham, sân, si.

        Giờ đây, Đức Thầy chỉ nói trì giới, nhưng trong giới gồm có đủ định huệ.

        Vậy phải trì giới bằng cách nào ?

        Đức Thầy có dạy:“Gìn giới cấm sửa tâm ô tạp”.

Và:   “Nếu ai mà biết chữ tu trì,

          Tâm bình tịnh được thì phát huệ”.

        Tu trì là trau sửa và gìn giữ giới luật. Tâm của mỗi người trước kia đều yên lặng tự nhiên như mặt nước hồ, nhưng vì bất giác sanh vọng niệm nên có xác thân. Vì có thân nên có 6 căn giống như 6 cánh cửa: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý; do 6 ngọn gió trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp thổi vào 6 cửa mà làm biển lòng nổi sóng, khiến tâm loạn động. Hễ hồ tâm động thì cặn cáu (phiền não) nổi lên, khiến nước đục ngầu, tức tăng thêm mê tối.

        Giờ đây, bắt đầu trì giới, tức là đóng 6 căn lại, đừng cho 6 ngọn gió trần thổi vào. Nghĩa là giữ 6 căn đừng duyên nhiễm theo 6 trần, tức tâm được định thì trí huệ liền phát khai và mê si tan mất. Cũng một cái tâm đó, nhưng trước thì ô nhiễm vọng động nên tối, giờ tâm hết vọng nhiễm và yên lặng nên mê tối tan mất, đèn trí tỏ rạng. Đức Thầy đã bảo:

         “Tâm sáng suốt như đài nguyệt kiến,

            Tánh trong như nước bích mùa xuân”.

        Đại khái Đức Thầy dạy hành giả muốn trì giới để độ mê si thì phải lấy tâm làm chủ sáu căn:

          “Làm cho chúng phục tùng chơn lý,

            Trong xác thân giám thị lục căn.

            Đừng cho chúng tính lăng quằng,

            Ngoài thì chấp thủ mà ngăn lục trần”.( ĐT)

        Thật vậy, khi ta chỉ huy được sáu căn không duyên nhiễm theo sáu trần, giữ được liên tục như vậy, cho đến khi không còn giữ mà tâm (ông chủ) vẫn như như bất động thì định huệ đạt thành, như gió thổi mây tan, trời trong trăng tỏ: “Vạn lý vô vân vạn lý thiên”.

        Tóm lại, Đức Thầy dạy môn đồ dùng bố thí, nhẫn nhục, trì giới để độ tham, sân, si . Đó là ba chiếc đò trong sáu chiếc đò của hạnh Bồ Tát (Lục Độ vạn hạnh, cũng gọi là Lục Độ Ba La Mật, tức 6 chiếc đò đưa đến bờ bên kia. Ấy là: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí huệ). Ai thực hành được sẽ có diệu năng độ mình, độ chúng đồng đăng giác ngạn. Đức Thầy có dạy:

                “Chúc ông thoàn nhã vững lèo,

             Qua bờ giác ngạn sớm treo gương mầu”.

        III- NIỆM PHẬT THẬT TƯỚNG:

        Theo ý trong đoạn kế tiếp chỉ dạy “phương pháp niệm Phật” là Đức Thầy dạy phương cách niệm Phật thật tướng, cũng gọi là niệm Phật tam muội (chánh định). Nghĩa là Ngài dạy niệm Phật theo cách nầy sẽ được trở về với thật tướng chơn như, tức là Bản lai thanh tịnh của chính mình, hành giả sẽ chứng đạt:“Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”. Song hành giả muốn niệm Phật theo cách nầy, trước phải biết rõ vọng niệm chúng sanh ra sao ?

        1- Vọng niệm chúng sanh: Là tưởng nhớ sự mê lầm, cũng gọi là niệm thế trần. Trong đây gồm có 3 phần:

        a)- Niệm ác: là tưởng nhớ những việc có va chạm tổn thương đến quyền lợi, danh vị, sanh mạng và hạnh phúc của người khác, kể cả các sanh vật có tri giác, khiến họ phải đau đớn buồn khổ, bực tức hận thù. Ai tưởng niệm như thế sẽ chuốc lấy quả khổ đau trong hiện tại hoặc gieo nhân luân hồi đền trả mãi mãi…

        b)- Niệm bất tịnh: Là ưóc mơ nghĩ tưởng những việc không trong sạch, như: năm điều dục lạc, sáu trần cảnh hoặc thất tình lục dục…Chính các điều ấy làm cho lòng mình tán loạn và mờ đục mảnh gương trí huệ, nên gọi là niệm bất tịnh. Đức Thầy hằng khuyên:

        “Việc vui say mèo mã đâu đâu,

          Hãy dẹp gác nhớ câu Lục tự”.

        c)- Niệm không đâu: Là tuởng nhớ việc bâng quơ, tức tưởng nhớ việc viễn vông, mơ hồ không thiết thực; kể cả việc qua rồi hay việc chưa tới, cũng vẫn nhớ. Sự tưởng nhớ nầy tuy không có hại cho ai, nhưng chẳng được lợi ích gì cho mình và mọi người, lại còn choán mất thời gian niệm Phật và việc trau giồi đạo đức, trí huệ của ta.

        Tóm lại, sự tưởng nhớ việc thế trần vừa kể trên tức là vọng niệm chúng sanh.  Từ trước tới giờ nó sai sử tâm trí ta, từ niệm sai lầm nầy, dính chuyền qua niệm sai lầm khác, không phút nào dừng nghỉ, như con vượn chuyền cây (tâm viên). Chính nó là niệm mê lầm, là vọng niệm phiền não, ngăn che làm cho tâm trí ta mờ ám, chẳng lúc nào được an vui giải thoát.

          2- Niệm Phật thay vọng niệm:

        Đức Thầy dạy:“Phương pháp niệm Phật là để trừ cái vọng niệm của chúng sanh. Có nghĩa khi biết rõ mặt mày của vọng niệm chúng sanh, hành giả phải dùng niệm Phật thay vào, đổi niệm chúng sanh ra niệm Phật.

        Lúc chưa tu, tâm trí ai cũng tưởng nhớ toàn là việc chúng sanh, khi được bước chân vào cửa Đạo thì có khi tưởng Phật, có lúc tưởng chúng sanh, tà chánh, vọng chơn, quấy phải lộn xộn, đó gọi là tâm ô tạp hay rối loạn. Vì mới tu phần đông chỉ tu theo hình thức bên ngoài, chưa kiểm lại lòng mình, nên có người tu đôi ba chục năm, mà vẫn chưa thấy an tâm…Đến khi có dịp chúng ta đọc qua các câu giảng của Đức Thầy:

        Thấy đạo lý chớ nào thấy tánh,

          Còn ẩn nơi tim óc xác phàm”.

          Hoặc:

          Khó tìm cho gặp chủ nhơn ông,

          Còn ẩn ánh trong vòng sanh chúng”. Hay là:

          Hãy bền lòng tầm Phật trong tâm”.

        Nghiệm xét theo đây ta mới nhận rõ chơn tánh, chủ nhơn ông, hay tâm Phật còn lẫn lộn trong tâm chúng sanh của mình. Nhờ đó, chúng ta mới chịu ngó vào nội tâm mà kiểm soát chọn lọc để chuyển vọng huờn chơn, như Đức Phật Thầy Tây An từng dạy:

“Lọc lừa thì đặng nước trong,

Ma Phật trong lòng lựa phải tầm đâu”.

        Đức Thầy nay cũng khuyên:

                “Trí hiền tâm đức chùi lau,

            Ra công lọc kỹ thì thau ra vàng”.

        Lọc lừa hay thay đổi, chuyển hóa cũng đồng một lý. Nhà tu cứ niệm vào một niệm Phật, thay ra một niệm thế trần. Song nên nhớ niệm Phật bằng tâm tưởng mới kết quả, chớ không phải niệm lớn ra tiếng. Vì có khi miệng niệm Phật lớn mà tâm lại tưởng nhớ việc khác, nên không được “Nhất tâm bất loạn”. Vậy ta cứ niệm Phật thay niệm chúng sanh liên tục như thế mãi cho đến khi tâm tưởng ta không còn một niệm thế trần nào.

        Điều căn bản của sự niệm Phật trước nhứt là phải thấy tâm và chủ tâm:“Lấy tâm thần làm chủ mới mầu”( ĐT). Rồi tưởng nhớ đủ sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật”, hoặc tưởng nhớ “Từ, Bi, Hỉ, Xả” vì bốn đức ấy là Phật…Cũng có thể niệm thêm “Tam bảo tự tánh”.(Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng : trở về tánh giác ngộ là niệm Phật, trở về lòng chơn chánh là niệm Pháp, trở về bản lai thanh tịnh là niệm Tăng). Đó là niệm trí giác ngộ, niệm giáo pháp chơn chánh và niệm lòng thanh tịnh. Nghĩa là lấy giác ngộ trừ mê lầm, lấy giáo pháp chơn chánh trừ tà quấy, lấy tâm thanh tịnh trừ loạn động, nhơ xấu.

        Lại nữa, tâm thức của mỗi người từ trước ví như cái túi đựng lộn lạo hai thứ: đậu đen và đậu đỏ. Giờ đây ta lựa nó ra, hễ để một hạt đậu đỏ vào, lấy một hạt đậu đen ra; cứ như thế mà đổi hoài, đổi mãi, cho đến khi còn toàn đậu đỏ tốt lành. Hành giả cứ niệm Phật theo phương cách nầy liên tục mãi cho đến khi “Nhất tâm bất loạn” tất tan hết chướng nghiệp mà vào cõi giải thoát.

        “Niệm chữ Di Đà tan chướng nghiệp,

          Thuyền từ Thầy rước lại Non Bồng”.( ĐT)

        3- Nhất tâm bất loạn :

        Nhất tâm là một lòng không tưởng khác, chỉ một lòng nhớ Phật, nghĩ chánh không còn xen tạp một niệm tà quấy hay ô nhiễm trần mê nào. Đến đây là dứt được tận gốc lòng ham muốn và các tình dục. Sự niệm Phật nầy phải được liên tục, trong mọi sự sinh hoạt đời sống hằng ngày, như: đi, đứng, nằm, ngồi, uống ăn, ngủ nghỉ…

        Đức Thầy đã dạy:

        Muốn niệm Phật chẳng cần sớm tối,

          Ghi vào lòng sáu chữ Di Đà.

          Thì hiền lương quên mất điều tà,

          Đặng hạnh phúc nhờ lòng cố gắng”

        Và:

        “Rán trì tâm tưởng niệm canh thâu,

          Nằm đi đứng hay ngồi chẳng chấp”.

        Ông Thanh Sĩ, một tín đồ của Đức Giáo Chủ PGHH, khi đã thực nghiệm phương pháp niệm Phật nầy có viết như sau:

        “Đi đứng niệm Di Đà. Nằm ngồi trì Lục tự.

          Thức cũng tưởng A Di. Ngủ cũng ghi Sáu chữ.

          Nói cũng nhớ Nam Mô. Nín cũng ôm Phật sự.

          Cực Lạc muốn vãng sanh. Cứ y hành  như thử”.

Và:

        “Niệm Phật lúc nào cũng niệm luôn,

          Nằm ngồi đi đứng niệm không buông.

          Lúc chưa thuần thục còn xao động,

          Khi đã rành quen hết rối cuồng.

          Đứt đoạn buổi đầu đừng thối chuyển,

          Nối liền phút cuối sẽ tròn vuông.

          Dù Thiền dù Tịnh dù muôn pháp,

          Tự chủ nơi tâm ấy cội nguồn”.

        Nếu hành giả nhứt tâm niệm theo phương cách của Đức Thầy và vị đệ tử vừa lý giải trên thì tâm trí chẳng còn loạn động (Nhất tâm bất loạn), lúc nào cũng an nhiên thanh tịnh.

        4- Niệm cái Bản Lai Thanh Tịnh:

        Niệm “cái bản lai thanh tịnh” là niệm “cái vô niệm” (vô vi thật tướng). Đây là tới chỗ pháp môn không hai, tức không  phân biệt Thiền hay Tịnh; mà trong Thiền có Tịnh, trong Tịnh có Thiền, dung thông cả vạn pháp. Đức Lục Tổ xưa đã bảo:“Pháp Ta lấy vô niệm làm Tông”. Và “Vô niệm niệm mới chánh, có niệm niệm thành tà”.

        Tuy hành giả niệm đến chỗ nhất tâm bất loạn, nhưng cũng còn vướng bận một vài tập khí phiền não. Vì còn thấy mình có được nhất tâm niệm Phật và có chứng đắc, tức còn chấp cái ta trong đó. Cũng như, người tu Thiền Tông tới chỗ “Tâm vô Tâm”, cũng còn cách một quan ải nữa, nên phải tiến tới “Bình thường tâm” mới tới đích. Còn người niệm Phật đến chỗ nhất tâm bất loạn, cần phải tiến vào “Bản Lai Thanh Tịnh”. Nghĩa là đối với mọi cảnh tượng lành dữ, động tịnh tâm trí vẫn như như bất động : “bình thường tâm tức thị Đạo”. Bấy giờ không niệm mà niệm, niệm mà không niệm, tâm tư không còn kẹt một pháp nào dầu dữ hay lành, thế gian hay xuất thế gian, hữu vi hay vô vi…Cho đến cái chứng đắc cũng không thấy có, ấy là được hòa vào “Bản lai thanh tịnh”, “Phật hóa tánh tình”. Và cũng là:

        “Nội quang cảnh tâm vô kỳ vật,

          Ngoại quan hình bất chấp kỳ hình”.( ĐT)

          5- Tu Thập Thiện và tịnh Tam Nghiệp:

        Đến đây, Đức Thầy nhắc lại cho nhà tu nên nhớ là muốn vào được “Bản lai thanh tịnh” trước phải tu căn bản từ hành Thập Thiện và tịnh Tam Nghiệp đi lên. Vì trong Ý nghiệp có tham, sân, si là gốc sanh ra vọng niệm chúng sanh và tâm tán loạn, nên khi tịnh được Tam Nghiệp thì quả vị thanh tịnh (Phật) sẽ đến một cách dễ dàng.

        Tại sao Đức Thầy dạy tịnh Tam nghiệp, dứt Thập ác và hành Thập thiện đi cặp nhau ?

        Vì tâm ta ví như miếng đất tốt (tâm địa), hễ đất tốt là lúa tốt, nhưng cỏ cũng mọc dẫy đầy. Vậy khi nhổ cỏ xong, nhà nông phải gieo lúa xuống liền, rồi chăm sóc một thời gian cho lúa tốt lên, cỏ mới hết. Bằng nhổ cỏ mà không gieo lúa, ít lâu cỏ sẽ mọc lại như cũ. (Cỏ dụ cho Tam nghiệp, Thập ác; lúa dụ cho hành Thập thiện).Cho nên, Đức Thầy dạy chúng ta tịnh Tam Nghiệp và hành Thập Thiện song đôi. Đây là cách tu thay đổi tiện lợi nhất, cũng như cách niệm Phật thay niệm chúng sanh đã giải trên.

        Vả lại, có hành Thập thiện, diệt Thập ác mới tịnh được Tam nghiệp, mà tịnh được Tam nghiệp là có nền tảng để xây cất trên đó tòa lâu đài Phật quả (Bản lai thanh tịnh). Nếu nền móng không vững chắc, tòa lâu đài bị sụp đổ. Cho nên Đức Thầy mới quả quyết:“Cần tu thập thiện thì sự niệm  mới có hiệu quả”.

        KẾT ĐỀ:

        Đại khái bài “Chư Phật Có Bốn Đại Đức”, cũng gọi là niệm Phật thật tướng, chủ đích là Đức Thầy dạy môn đồ, niệm Phật để đạt đến Bản lai thanh tịnh, tức là thành Phật tại thế gian. Trước nhất hành giả rèn tập cho mình có được bốn đại đức:“Từ, Bi, Hỉ, Xả” đồng thời phải chuyển hóa Tham, Sân, Si trở thành Bố thí, Nhẫn  nhục, Trì giới và đổi niệm chúng sanh ra niệm Phật, bằng cách thay đổi liên tục, cho đến khi thuần nhứt chánh niệm, chẳng còn một tư tưởng trần mê nào xen tạp để được “Nhất tâm bất loạn”. Song hành giả nên nhớ “trước phải hành trì điều căn bản là tịnh Tam nghiệp, diệt Thập ác và hành Thập thiện làm nền móng để tiến tới mục đích cuối cùng là “Bản lai thanh tịnh”, tức hiểu được:“Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”.

 

CHÚ THÍCH :

         PHÁP: Phạn ngữ là Dharma (Sanscrit), Dhamma ( Pali), phiên âm là Đạt-ma hay Đàm-ma, Đàm-mô. Tàu dịch là Pháp. Có nghĩa là sự vật (vạn pháp). Bất cứ sự vật chi dù nhỏ dù lớn, hữu hình hay vô hình, vô vi hoặc hữu vi, chơn thật hay hư vọng, tốt hoặc xấu, lành hay dữ… đều có thể gọi là Pháp. Và từ lý lẽ thưòng sự nhỏ hẹp trong gia đình, đến nguyên tắc lớn của tôn giáo hay uy lực chung của vũ trụ đều gọi là Pháp.

        Người tu đức xả cứ tùy duyên mà sử dụng chớ không hề chấp kẹt hay vướng bận một pháp nào. Ấy mới gọi là Niết Bàn giải thoát.

        Xưa Đức Phật giáo hóa 49 năm mà Ngài vẫn thốt:“Suốt 49 năm thuyết pháp, ta chẳng thốt một lời”. Nay Đức Thầy cũng bảo:

        Chúng sanh mê nên đem Pháp thuyết,

           Giải thoát rồi Pháp bất khả dùng”.

        VƯỚNG VÍU: Mắc phải, dính vào, không buông rời ra.

        LUYẾN ÁI: Yêu mến, quấn quit. Ví dụ: luyến ái danh, lợi, tình, ngũ dục hay nam nữ luyến ái.

        BẢN LAI THANH TỊNH: Cái nguyên lai trong sạch, cái gốc yên lặng, trong sáng từ trước. Đó là một trong nhiều danh từ chỉ cho Phật tánh, như: Chơn tâm, Như như, Như lai, Viên giác, Thật tướng, Chơn như…

        Đức Thầy cho biết:

        “Đem về giác tánh chơn như,

         Kim thân thị hiện dứt trừ tử sanh”.

        TRƯỢC NHIỄM: Cũng gọi là nhiễm trược. Trược là dơ bẩn, cặn đục, xấu xa, lộn xộn. Gồm có ba thứ: thân trược, khẩu trược và ý trược. Kiếp hồng trần của mỗi chúng sanh có năm thứ trược: Kiếp trước, Kiến trược, Phiền não trược, Chúng sanh trược, Mạng trược. Nhiễm là nhuộm thấm, dính, ghiền. Nói chung, nhiễm trược là ghiền nhiễm những điều xấu xa, nhơ đục, quấy ác. Nó đã thấm nhiễm trong tâm ta lâu đời khó gội rửa được. Trược nhiễm là từ đối lập với thanh tịnh.

        Cho nên Đức Thầy khuyên môn đồ hãy nương về với thể tánh thanh tịnh để tâm hết trược nhiễm trần ai, tức mình với Phật đồng hoà hay gọi là “Phật hóa tánh tình”.

Bài 6.- SƠ GIẢI TỨ DIỆU ĐẾ (2)

(Trong  Quyển 4 GIÁC MÊ TÂM KỆ, SGTVTB 2004, tr.138)

         Như chúng tôi đã giới thiệu, Đức Thầy giảng pháp Tứ Diệu Đề hai lần. Chúng ta vừa nghiên cứu qua bài Sơ Giải Tứ Diệu Đề, Ngài dạy năm 1942, giờ đây chúng ta cần khảo xét bài Tứ Diệu Đề Ngài viết trong “Giác Mê Tâm Kệ” năm 1939.

        Ôn lại quá trình lịch sử, Đức Thích Ca khi xưa qua 5 thời kỳ thuyết pháp độ sanh, gồm có 3 tàng Kinh điển hàm chứa vô lượng pháp môn. Có những pháp, Phật chỉ giảng lược qua một lần, cũng có những pháp Phật giảng đi giảng lại nhiều lần, như ngay lúc sơ khởi Phật đã thuyết Tứ Diệu Đề, Bát Chánh Đạo, Thập Nhị Nhân Duyên…Rồi đến thời kỳ Niết Bàn chót hết, Ngài cũng giảng lại pháp ấy, nhưng Ngài giảng sâu hơn, để phá chấp cho các hàng La Hán và Bồ Tát. Những Pháp môn Đức Phật áp dụng liên tục như vậy, quả là những giáo lý căn bản, then chốt trong Đạo Phật.

        Thời nay, tới Đức Thầy cũng thế: Ngài giảng pháp Tứ Diệu Đề 2 lần : Lần 1 trong Quyển 4 (Giác Mê Tâm Kệ, 1939), lần 2 trong năm 1942; còn Bát Chánh Đạo, Ngài giảng luôn 3 lần: Lần 1 trong quyển Giác Mê Tâm Kệ (1939), lần 2 trong bài Dặn Dò Bổn Đạo (1940), lần 3 trong Quyển 6 (1945). Bài pháp Tứ Diệu Đề trong Giác Mê Tâm Kệ (1939), Ngài lược tả bằng văn vần. Chúng tôi căn cứ vào đây mà diễn lược ý nghĩa để chúng ta cùng tu học hết hai bài mới thấy chỗ dụng ý của Ngài. Mở đề cho bàp Pháp luận nầy, Ngài nói:

        “Tứ Diệu Đề ai có mến ưa,

          Thì Lão cũng kể sơ thêm nữa”.

                                    1-TẬP ĐỀ: Tu tập sửa đổi.

        Ý nói khi mới đặt chân vào cửa Đạo, nhà tu cần khép mình trong khuôn khổ luật nghi và lo trau sửa thân tâm, cho đúng theo lời chỉ giáo của Tổ Thầy. Với công hạnh tu sửa nầy, dù gặp nhiều khó khăn, cực nhọc ta cũng phải cố gắng trì hành.

                “Qui y thì khá làm y,

               Giữ lòng thanh tịnh Từ bi giúp đời”.

        Có được như vậy mới chứng đặng quả vị Phật Thánh, và siêu sanh vào Niết Bàn, Cực Lạc như Ngài đã dạy:

        “Chữ Tập Đề nay đà mở cửa,

          Để đem vào khuôn khổ người hiền.

          Rán cực lòng một bước đầu tiên,

          Sau mới được làm nên Phật Thánh”.

                                     2-DIỆT ĐỀ: Diệt trừ ác nghiệp phiền não.

        Ý nói đồng thời với sự khép mình trong qui điều giới luật, hành giả phải cương quyết diệt trừ tập nghiệp vô minh phiền não như: Tam nghiệp, tham, sân, si hay thất tình lục dục hoặc lục căn ô nhiễm lục trần…

        Vì những phiền não dục tình ấy đã kết thành ác nghiệp từ lũy kiếp, làm cho tâm trí ta mê mờ mà phải chuyển luân trong sáu đường sanh tử, nên nay ta phải cố gắng tiêu trừ tận gốc của nó mới đặng chứng quả:

        “Về thượng giới cõi Tiên mới bảnh,

          Đến Diệt Đề trừ vật dục xưa.

          Cõi hồng trần các việc mến ưa,

          Sự giả tạm ta nên rứt bỏ”.( ĐT)

                              3-KHỔ ĐỀ: Chịu đựng sự khó nhọc và kiên nhẫn tu hành:

        Ý dạy rằng: Từ lâu chúng ta đã quen theo việc làm quấy, nói quấy, tưởng quấy (tam nghiệp, thập ác). Giờ đây ta muốn chuyển hóa nó lại là một điều rất khó. Ngoài ra, còn có bao điều khổ khó khác, như: pháp nạn, thời gian thử thách, danh, lợi, tình câu nhữ…dễ làm cho lòng mình thối chuyển. Cho nên nhà tu phải kiên trinh nhẫn nại. Dù cho lăn lóc rán kiên trinh, để vượt qua các trở ngại ấy, hầu tiến tới mục đích:

         “Muốn tâm tánh ngày kia sáng tỏ,

          Thì Khổ Đề phải chịu nhọc nhành.

          Lòng dục tu thì phải thiệt hành,

          Chớ đừng có ham điều sung sướng”.( ĐT)

                                    4-ĐẠO ĐỀ: Tiến hành Bát Chánh Đạo.

        Đại ý Đức Thầy dạy: đồng thời với sự kiên tâm trì chí, hành giả phải thành tâm thật ý, tiến hành theo con đường Bát Chánh Đạo sẽ trừ được bát tà (Bát tà: Tà kiến, Tà tư duy, Tà nghiệp, Tà tinh tấn, Tà ngữ, Tà mạng, Tà niệm và Tà định) và bứng tận gốc vô minh phiền não, tất được hoát nhiên tỏ ngộ chỗ quang vinh vi diệu vô cùng tận của Đạo tâm. Ấy gọi là thành quả giải thoát vào Niết Bàn:

         “Đức Phật Tổ nào đâu hẹp lượng,

          Chịu nhọc nhằn mới rõ Đạo Đề.

          Thấy một đàng thẳng bẳng mà mê,

          Ôi ! chừng đó mới là mầu nhiệm”.( ĐT)

        Sở dĩ pháp Tứ Diệu Đề Đức Thầy viết năm 1939 có khác bài viết năm 1942, tức là có khác số thứ tự và định nghĩa không giống nhau là vì thời hạ ngươn mạt pháp, Đạo Phật bị suy yếu “Pháp môn bế mạt, Thánh Đạo trăn vu, người tâm trí tối đen, đời lắm Ma Vương khuấy rối…Căn cơ chúng sanh cạn hẹp, nghiệp quả dẫy đầy. Lại thêm nhơn loại đang tiến theo đà văn minh vật chất. Sống trong cảnh khổ mà họ cho là an vui hạnh phúc, nên khó nhận được sự khổ và gốc sanh ra đau khổ để lo tu hành.

        Do đó, Đức Thầy mới tùy theo cơ duyên và hoàn cảnh hiện tình mà Ngài áp dụng phương thức đối cơ (xứng hạp với cơ duyên). Khiến họ dễ tỉnh thức quày đầu hướng thiện. Ngài hướng dẫn người tu từ dễ đến khó, từ hình thức chuyển đến nội tâm (vô vi), tức là từ chỗ biết kính tin Trời, Phật, qui y Tam Bảo, rồi lễ bái công phu, khép mình vào luật nghi trai giới, lánh ác hành thiện (Tập đề).Kế tiếp là lo tu sửa tâm ý, diệt trừ phiền não vô minh và dục vọng: danh, lợi, tình…(Diệt Đề). Để được thành công kết quả, hành giả phải kiên tâm trì chí và chịu khó nhọc hành trì mãi cho đến khi thành đạt (Khổ đề). Song muốn tẩy trừ cho sạch tâm trần ô nhiễm, nhà tu phải tiến hành theo con đường Bát Chánh Đạo (Đạo đề), tất sẽ được giải thoát sanh tử vào Niết Bàn.

        Đến năm 1942, Đạo Phật lần lần chấn hưng và sau 3 năm tu học Đạo Pháp, trình độ môn đồ Phật tử, cũng được tiến lên mức độ, Đức Thầy mới viết bài “Sơ Giải Tứ Diệu Đề” theo ý của Đức Phật, song cũng có đổi số thứ tự là Đạo trước Diệt sau.

        Trước nhứt Ngài chỉ cho mọi người nhận rõ các sự khổ của mỗi chúng sanh đang gánh chịu (Khổ Đề) là do tập nghiệp vô minh phiền não gây ra (Tập đề). Giờ muốn giải thoát phải trì hành “Bát Chánh Đạo”( Đạo Đề).

        Khi hoàn thành tám điều chánh thì gốc sanh tử hết, tức được trở về với Bản Lai Thanh Tịnh, Chơn như Diệu Minh của chính mình. Ấy gọi là Niết Bàn giải thoát (Diệt Đề).

        Nhận xét giữa hai bài Tứ Diệu Đề, Đức Thầy viết năm 1939 và năm 1942, thấy rằng chỉ khác nhau ở phương tiện sửa đổi cho thích ứng trình độ và căn cơ, hoàn cảnh của mỗi chúng sanh, chớ chỗ qui túc cũng đồng mục đích giải khổ và thành Đạo như nhau. Nhà tu nếu nương theo pháp Tứ Diệu Đề nhận rõ sự khổ và nguyên nhân sanh khổ mà tiêu diệt nó mới đạt Đạo Vô Thượng Bồ Đề.

        Tóm lại, từ xưa chư Phật ba đời giáo hóa chúng sanh đều dùng pháp Tứ Diệu Đề làm căn bản. Nó vừa mầu nhiệm vừa thực tế (chân lý), không ai mà chẳng công nhận. Là một môn đồ nhà Phật, mỗi người trong chúng cần khảo xét tinh tường về bốn chân lý chắc thật nầy và hăng hái thực hành để độ mình, độ chúng ra khỏi vòng sanh tử mà thành Đạo giải thoát. Đặng vậy mới chẳng phụ công trình giáo hóa của Đức Phật, Đức Thầy.

 CHÚ THÍCH :

         PHẬT THÁNH: Phật là đấng hoàn toàn giác ngộ và tỉnh thức. Ở đây chỉ cho bậc Phật thừa hay tối thượng thừa và hàng Bồ-Tát Đại thừa, hoặc Duyên Giác Trung thừa. Phật là từ đối lập với từ chúng sanh. Đức Thầy khuyên:

        “Rán bắt chước làm theo Phật Thánh,

          Nếu thiệt người thì biết thương người”.

        THÁNH ở đây chỉ cho hàng Tứ Thánh: Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm và A La Hán của hàng Thinh Văn Tiểu Thừa. Bởi tùy theo tâm đức và công năng tu tập pháp Tứ Diệu Đề mà kết quả có rộng hẹp cao thấp khác nhau. Thánh là từ đối lập với phàm.

        TRỪ VẬT DỤC XƯA: Diệt trừ tận gốc lòng ham muốn các vật chất danh, lợi, tình hay lục dục. Bởi nó có sẵn trong tâm thức (A Lại Da Thức) của mỗi người từ vô thỉ tới giờ, nên gọi là xưa. Đây cũng chỉ cho vô minh phiền não:“Trừ vật dục trì chơn bất hoại”( ĐT).

        SỰ GIẢ TẠM: Sự vật không thật có, không bền chắc lâu dài, có được thời gian rồi tan mất. Ý chỉ cho vạn vật trong thế gian những cái gì thuộc về hình tướng, như gia tài, sự nghiệp, vợ đẹp, con ngoan hay thân xác của ta đều đi theo định luật: thành, trụ, hoại, không. Chẳng có một vật nào giữ được bền lâu nên gọi là giả tạm. Cổ nhân từng bảo:

        “Thương bấy người đời không vẫn không,

        Ruộng vườn nhà cửa có như không.

        Vợ con cha mẹ lâu rồi chết,

        Danh lợi giàu sang rốt cuộc không.

        Trăm khéo trăm khôn đều giả tạm,

        Ngàn mưu ngàn kế cũng huờn không.

        Suốt đời lo lắng gầy cơ nghiệp,

        Nhắm mắt hai tay vẫn phủi không”.

        Kinh Kim Cang, Phật cũng bảo:

                “Nhất thiết hữu vi pháp,

                 Như mộng huyễn bào ảnh.

                 Như lộ diệc như điển,

                 Ưng tác như thị quán”.

        Tạm dịch: 

                (Phật rằng: muôn pháp trong đời,
                    Ví như sương bọt giữa vời dễ tan.
                    Chiêm bao điện chớp tiếng vang,
                    Đến như thân xác hơi tàn còn đâu !)

        Đức Thầy nay cũng thường cho biết:“Cuộc đời là giả tạm, nay vầy mai khác thân thế lạc luân, của cải gia tài như đám phù vân trước gió, nước bọt mây bèo; những cái sanh, cái bịnh, cái lão, cái tử được đặt lên cuộc đời của người nầy rồi đến người khác, rồi đến người khác nữa. Nghĩa là tất cả nhân loại không thiếu sót một ai…”

        NHỌC NHÀNH: Cũng viết là nhọc nhằn. Có nghĩa vất vả, nhiều việc khó khăn cực nhọc.

        MẦU NHIỆM: Cũng gọi là nhiệm mầu. Có nghĩa sâu kín và huyền diệu vô cùng, khó diễn tả và nghĩ bàn cho hết được:“ Đạo lý tầm sâu, sâu chẳng cạn”.( ĐT) Ý nói người tu Đạo Đề, tức là Bát Chánh Đạo thì tỏ ngộ được cái chơn lý vô sanh bất diệt (Niết Bàn) thì kết quả mầu nhiệm vô cùng.

Bài 7.- TRONG VIỆC TU THÂN XỬ KỶ

 CHÁNH VĂN

        Sự lễ bái không đủ cho ta tỏ ra một tín-đồ chân thành của đạo Phật được. Tại sao vậy ?

          Vì Đức Phật chẳng bao giờ ngỏ ý rằng: “Các người hãy lạy thờ ta cho nhiều rồi ta sẽ độ giúp các người” mà trái lại, Ngài dạy rằng: “Các người nên hiểu biết phận-sự con người phải làm gì trong kiếp sống và tìm kiếm chân tánh của mình”. Thiệt-hành theo giáo-lý của Ngài thì Ngài sẽ hướng-dẫn và ủng-hộ vậy.

          Ta hãy đem đức-tin trong sạch mà thờ kỉnh Phật và hãy đem lòng lành mà hành-động y theo lời phán dạy của Phật.

          Nếu ta cứ đem đức-tin thờ-phượng tôn-giáo bằng cách sai-lầm thì rất có hại cho đời mạng của ta. Như vậy chỉ tỏ ra một người rất mê-tín (mặc dầu Đạo của ta thờ là một Đạo rất chánh đáng).

          Vậy đồng thời với Đức-Tin và Lòng Lành phải để cho nó đi cặp luôn luôn. Có Đức Tin (tin về thần quyền) mà thiếu Lòng Lành thì rất dễ bị tà-thần cám dỗ, bọn tăng-đồ lợi-dưỡng gạt-lường. Bởi những kẻ ấy thường bày ra cúng-kiếng để chuộc tội, hoặc bắt-buộc ta thờ-kính một cách phiền-phức làm cho lòng u-tối của ta càng ngày càng u-tối thêm.

          Còn có lòng lành mà thiếu đức tin vào công việc từ thiện của mình thì lòng lành ấy thường hay thối chuyển vậy.

          Vậy đồng thời với đức tin và lòng trí lành phải đi cặp luôn luôn.

          Có đức tin và lòng lành rồi thì dùng trí-huệ mà bình-đoán cái Đạo của ta đang học hay sẽ học một cách xác-thực, tìm hiểu cho rõ-ràng cái mục-đích ấy, như thế mới mong thoát khỏi tà kiến gạt-gẫm ta đem đức tin, lòng lành cống hiến vào chỗ thấp hèn hay một ông thầy mê dốt.

          Người học Đạo muốn mở mang trí-huệ cần phải tìm phương-pháp diệt cái vô-minh (tối tăm ngu muội).

          Muốn diệt cái vô-minh trước hết phải điêu-luyện khối tinh-thần cho mạnh-mẽ đặng tự lập con đường rõ-ràng, duy nhất của mối Đạo mình đang học để lấy đó làm cương-mục mà bài trừ những thành-kiến, cố chấp, thói quen, sự chần chờ, lòng ham muốn, tánh kiêu-ngạo, tật-đố, gièm-siểm, dua-nịnh, ích-kỷ tư tâm, sự gây gổ, mê đắm trong bể dục-tình và sự phiền-não nó làm cho náo loạn cõi lòng. Nên bài trừ được nó rồi trí huệ tất mở-mang vậy.

          Người có tâm nếu không tập suy-gẫm cho mở trí thì hay dễ bị lường gạt.

          Người có trí mà vô tâm thì hay xảo trá. Nên trí và tâm của người học Đạo cần tìm cách làm cho nó được phát-triển cả hai để lấy tâm làm chủ trì mọi việc, lấy trí mà phán xét mọi việc trước khi ta sắp đưa cho tâm chủ trì. Được như thế chắc-chắn ta học Đạo mau thành công đắc quả.

          Đừng thấy ai theo mối Đạo nào đông-đảo rồi ta cũng vội vàng theo Đạo ấy mà lúc đó ta chưa hiểu giáo-lý ấy như thế nào.

          Cũng đừng thấy người ta thờ Phật rồi vội-vã lập bàn thờ Phật, mà chưa hiểu ông Phật thế nào và tại sao phải thờ kính Đức Phật. Nếu tu như thế, thờ Phật như thế, thì càng tu càng thờ bao nhiêu càng tỏ ra cho thiên hạ thấy rõ ta mê-tín bấy nhiêu. Đó cũng là cái đích để cho người vô Đạo nhắm đó mà bài-bác, nhạo chê hủy-báng và cũng rất uổng cho cái công trình thành-kính lễ-bái của ta vậy.

          Cho được tránh những điều ấy, trước khi thờ, học Đạo nào, hay theo ông thầy nào, ta hãy suy-gẫm, phán-đoán kỹ-càng; chừng hiểu biết rõ-ràng ta sẽ hành theo Đạo ấy, Thầy ấy. Chẳng được như vậy, dầu mình theo Đạo rất chánh đáng, ông Thầy rất thông minh cũng chẳng có ích chi cho mình cả.

         Sự đầu tiên của người hành Đạo là cốt sửa những tư-tưởng, tìm cách đánh đổ tư-tưởng xấu xa, đem thay vào những tư-tưởng ôn-hòa, đạo-đức.

                                 Bạcliêu, năm Nhâm-Ngũ.

                                ( SGTVTB 2004, 457-460 )

 LƯỢC GIẢI:

        XUẤT XỨ – VĂN THỂ – ĐẠI Ý:

        Đây là bài giáo lý sau cùng trong loạt bài Pháp luận mà Đức Thầy đã sáng tác vào năm Nhâm Ngũ (1942), lúc Ngài lưu trú tại tư gia ông Võ Văn Giỏi (Bạc Liêu). Ngài viết theo thể văn xuôi, lối thuyết giáo.

        Đại lược bài “Trong Việc Tu Thân Xử Kỷ” bao gồm các vấn đề quan thiết, căn bản. Cũng được gọi đây là điều then chốt hay bí yếu trong Giáo lý PGHH. Vậy mỗi tín hữu chúng ta cần phải tìm học lý nghĩa cho chính xác, và y cứ theo đó thực hành, sẽ được kết quả chắc chắn.

         NỘI DUNG:

        Chúng tôi căn cứ nội dung của bài, phân ra các đề mục và lược giải như sau:

        I- LỜI DẠY QUAN TRỌNG:

        Vẫn biết từ xưa đến nay, mục đích chính của Đạo Phật là chỉ thẳng vào vô vi thật tướng; song vì muốn rộng độ các tầng lớp chúng sanh, mà ngay từ Đức Phật, chư Tổ, chư Sư đều phải áp dụng muôn ngàn phương tiện. Từ hình thức đến nội tâm, từ sự đến lý, để thích hợp với mọi cơ duyên cho mỗi tín đồ tiện bề tu học.

        1/-SỰ THỜ CÚNG LỄ BÁI:

        Đây là vấn đề đầu tiên của người sơ cơ hành đạo. Khi hành giả phát tâm qui y Phật, tất phải phụng thờ Tam Bảo, hằng ngày lo lễ bái công phu, ăn chay niệm Phật, hành thiện tránh ác và nghiêm trì giới luật. Vào năm 1939 Đức Thầy đã dạy môn đồ:

        “Tưởng nhớ Phật như ăn cơm bữa,

          Vọng Cửu Huyền sớm tối mới mầu”.

          Và:

          “Sớm với chiều gắng chí nguyện cầu,

          Thì sẽ được tòa chương dựa kế”.

          Hoặc là:

          “Sớm chiều bình đẳng chớ lơi,

          Thường hằng như vậy, nhớ lời đừng sai”.

        Các lời dạy đó, mỗi tín đồ ai cũng phải trì hành, song đây mới là nấc thang đầu là sự tướng của Đạo và cũng là phương tiện phụ thuộc mà thôi. Cho nên đến năm 1942, Đức Thầy đưa tín đồ lên một bước nữa để đi đến sự lý dung thông. Ngài nói:“Sự lễ bái không đủ cho ta tỏ ra một tín đồ chân thành của Đạo Phật được”. Rồi Ngài tự đặt câu hỏi: “Tại sao vậy ?” Bởi tâm lý chung của người mới tu, khi nghe lời dạy trên ai cũng không khỏi thắc mắc. Đoạn rồi Ngài trả lời liền theo đó:

        “Vì Đức Phật không bao giờ ngỏ ý rằng: “Các người hãy lạy thờ ta cho nhiều rồi ta sẽ độ giúp các người”, mà trái lại, Ngài dạy rằng: “Các người nên hiểu biết phận sự con người phải làm gì trong kiếp sống và tìm kiếm chân tánh của mình”. Thiệt hành theo giáo lý của Ngài thì Ngài sẽ hướng dẫn và ủng hộ vậy”.

        Đây là phần chính yếu và quan trọng trong Tôn Chỉ “Học Phật Tu Nhân” của PGHH.

        2/-PHẬN SỰ CON NGƯỜI:

        Phận sự tức là bổn phận, là một trong nhiều nghĩa của chữ Đạo. Đạo là bổn phận của mỗi người.

        Là một nền Đạo phát xuất từ lòng dân tộc, nhập thế cứu đời. Bắt nguồn từ Sơ Tổ Tuệ Trung Thượng Sĩ, qua Trúc Lâm Tam Tổ (Tam Tổ: Sơ Tổ Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông, Nhị Tổ Pháp Loa Tôn Sư, Tam Tổ Huyền Quang Tôn Sư) đến Phật Thầy Tây An với Bửu Sơn Kỳ Hương và Đức Huỳnh Giáo Chủ với Phật Giáo Hòa Hảo hiện nay. Nhận thấy có sự tương quan và thừa kế rất kỳ diệu, như khi xưa Vua nhà Trần lên núi tìm Phật, có đến hỏi Quốc Sư Phù Vân thì Ngài đáp: “Phật không có trên núi, Vua muốn tìm Phật phải đứng tại thế gian mà tìm”, Và Ngài Pháp Loa hỏi Sơ Tổ Giác Hoàng:“Yếu chỉ của sự tu hành là thế nào ?”. Ngài Điều Ngự Giác Hoàng cũng đáp: “Phản quang tự kỷ bổn phận sự”– Có nghĩa là phải xoay cái nhìn lại chính mình đó là phận sự gốc của người tu. Ngày nay Đức Giáo Chủ cũng dạy Môn đồ:

        “Bạch trinh giữ lấy nghĩa nhân,

          Muốn về cõi Phật lập thân cõi trần”.

        Và:

        “Phật tại tâm chớ có đâu xa,

           Mà tìm kiếm ở trên non núi”.

        Vậy phận sự của con người tức là Đạo Nhân. Trong đây gồm có hai phần: Tu thân và Xử thế tiếp vật.

        a)-TU THÂN:

        Tức là trau sửa thân, khẩu, ý. Vì trong con người của mỗi chúng ta đều có ba phần: hành động, ngôn ngữ và ý tưởng; mà ý tưởng tức là tâm, vì nó là nguồn gốc tất cả. Hễ ý tưởng tốt thì lời nói việc làm đều tốt, bằng ý tưởng xấu thì lời nói việc làm cũng xấu theo. Chính nó là nghiệp nhân của luân hồi sanh tử. Vậy ai muốn giải thoát sanh tử, trước phải tu thân. Đức Thầy hằng dạy:

        “Trời Phật thương người lo độ tận,

           Muốn lo giải thoát phải tu thân”.

        Và:

        “Tu thân thiện tín phải chuyên cần,

           Lục tự Di Đà giữ Tứ Ân”.

        Theo đây ta phải chuyên cần bằng cách nào ? Để thiệt thi đúng theo ý nghĩa, là hành giả trong tứ tướng oai nghi (đi, đứng, ngồi, nằm), giờ phút nào cũng theo dõi và kiểm soát thân, khẩu, ý mình một cách chặt chẽ. Đừng cho vi phạm 10 điều ác và luôn thi thố 10 điều lành để được trọn lành, trọn sáng.

        “Ác trừ xong hiện ra thiện nghiệp,

           Lóng nguồn chơn Phật tiếp dẫn cho.( ĐT)

        Ngoài ra, chúng ta còn có bổn phận quan trọng là: Hãy tìm con đường giải thoát cho mình bằng cách lạc Đạo an bần xả thân tu tỉnh”( ĐT).

        b)-XỬ THẾ TIẾP VẬT:

        Đây là bổn phận của chúng ta vừa lo đền đáp Tứ đại trọng ân:“Tứ ân đã trả chẳng còn tội căn”( ĐT). Và vừa đối xử với mọi người, mọi giới từ gần đến xa. Gần là trong gia đình cha mẹ có bổn phận thương nuôi dạy dỗ các con. Làm con có bổn phận phụng dưỡng cha mẹ cho tròn câu hiếu đạo. Vợ chồng cư xử ân nghĩa song toàn, anh em đối đãi hài hòa kính thuận. Xa là còn có bổn phận đối với cô bác trong thân tộc và mọi người chung quanh trong xã hội. Mỗi mỗi đều cư xử toàn hảo toàn hòa để đem lại niềm an vui hạnh phúc chung.

        Nói tóm lại, chúng ta hãy tự thấy mình trong hiện tại đang đứng vào địa vị nào, phải xử sự đúng với bổn phận của địa vị đó. Ấy là Đạo, chớ không phải còn kiếm cái Đạo ở viễn vong.

        Đức Thầy đã tóm tắt ý nầy trong một đoạn Giảng:

        “Đạo Tôi-Chúa chặt gìn câu chung thỉ,

        Đạo Thầy-Trò khắc cốt với ghi xương.

        Đạo Cha-Con chặt chẽ chữ miên trường,

        Đạo Chồng-Vợ thuận hòa cho đến thác.

        Biết lễ nghĩa kính yêu cùng cô bác,

        Nội tông cùng ngoại tổ với cậu dì.

        Thêm kính nhường anh chị kẻ cố tri,

        Mắt chẳng thấy lũ gian phi xảo trá.

        Đạo bè-bạn bất phân nhơn với ngã,

        Chữ nghĩa tình sắt đá mãi bền gan”.          

        3-TÌM KIẾM CHÂN TÁNH:

          Đây là phần học Phật và tu Phật. Vậy chân tánh là cái gì ? Và muốn tìm nó ta phải tìm ở đâu ?

        a)- ĐỊNH NGHĨA VÀ VỊ TRÍ:

        Hiểu theo văn tự, chân tánh là cái tánh chân thật của mỗi người, ai cũng có, cũng gọi là tánh Phật hay Phật tánh. Đức Phật xưa đã bảo: “Nhơn nhơn hữu tánh Như Lai”. Hoặc là: “Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh”. Đức Thầy hiện nay cũng nhận định như vậy và Ngài còn chỉ vị trí của tánh Phật.

        “Nhàn thanh tìm kiếm, kiếm nơi tâm,

           Phật cũ ngày xưa hãy rán tầm”.

          Và:

          Thấy Đạo lý chớ nào thấy tánh,

          Còn ẩn nơi tim óc xác phàm”.

        Ngài còn quả quyết: “Chẳng nói vắn dài Phật nọ tức tâm. Và ai muốn thấu đạt thì:

        “Hãy bền lòng tầm Phật trong tâm”( ĐT).

        Nếu hành giả nào tìm Phật ngoài tâm thì như tìm sừng thỏ lông rùa, làm sao thấy được ? Lục Tổ đã bảo: “Người tu mà bỏ tâm đi tìm Phật, như người đội nón đi tìm nón, cỡi trâu lại tìm trâu”. Đức Phật Thầy Tây An cũng cảnh tỉnh mọi người:

        “Ngọc nhà luống bỏ chẳng mài,

         Tiểu tâm vì bởi cậy tài nên xa”.

        Thêm nữa, người muốn tìm tánh Phật mà chỉ chạy theo hình tướng sắc màu hay Kinh kệ, lễ bái suông, hoặc ngôn từ đối đãi lại còn cách xa hơn nữa. Bởi: “Sắc tướng thinh âm chư ngoại giáo, chơn truyền cụ thất Đạo nan thành” (Kinh Phật). Cho nên Tổ Sư Đạt Ma có dạy:

             “Bất lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền.

             Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”.

        b)-PHƯƠNG CÁCH THẤY TÁNH:

        Khi biết rõ vị trí của chân tánh ở trong tâm của mỗi người, nhưng chẳng phải dễ gì thấy được. Bởi nó còn tiềm ẩn trong tim óc xác phàm của mỗi chúng ta. Ví như ly nước múc từ dưới sông lên, cặn cáu còn lộn lạo đục ngầu. Sau khi ta lóng lặng và lọc ra thì còn lại chất nước trong tốt lành. Cho nên ngoài ly nước đục không có chất nước trong, cũng như ngoài tâm chúng sanh không có tánh Phật, ngoài phiền não không có bồ-đề…

        Thế thì ai muốn thấy tánh Phật, phải thấy tánh chúng sanh trước, cũng như muốn thấy Bồ-đề (giác ngộ) trước phải thấy phiền não. Rồi ra công lọc lừa, chuyển hóa nó lại, như Đức Phật Thầy TâyAn từng dạy:

                “Lọc lừa thì đặng nước trong,

           Ma Phật trong lòng lựa phải tầm đâu ?”

        Và Ngài còn bảo: nếu nước được lắng trong thì tự nhiên bóng nguyệt hiện bày. Cũng như người tu khi quét sạch bụi trần đang bám víu nơi tâm tư thì nghiệp sanh tử liền dứt. Bấy giờ đài minh cảnh, tức trí huệ của mình sáng tỏ. Ấy là đoạn hết nợ tiền khiên và được hoàn về “Thể Tánh Chơn Như”, tức là Kiến tánh thành Phật:

          (Thủy thanh nguyệt ảnh hiện tự nhiên,

        Tảo tận trần ai đoạn thế duyên.

        Thủy nguyệt Quan âm Minh Cảnh chiếu,

        Danh như bổn tánh đoạn tiền khiên).

        Còn Đức Thầy hiện nay Ngài dạy tín đồ:

        Trí hiền tâm đức chùi lau,

           Ra công lọc kỹ thì thau ra vàng”.

        Vậy hành giả nào muốn tìm kiếm chân tánh, nên noi theo gương hạnh của Đức Lục Tổ Huệ Năng, Đức Thầy có đề cập:

        “Khùng nói cho già trẻ làm tin,

          Theo Lục Tổ chớ theo Thần Tú”.

        Thuở Lục Tổ còn là một tiều phu, ông đang đi đốn củi, bỗng được nghe người tụng Kinh Kim Cang đến câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”.(Nên trụ cái tâm ở chỗ không sanh). Nghe xong ông liền tỉnh ngộ quyết chí tu hành, ông trở về xin phép mẹ rồi đến chùa Huỳnh Mai xin thọ giáo với Ngũ Tổ. Khi nhập viện xong, ông bị đồ chúng coi thường, nên họ cắt phần ông phải giã gạo suốt ngày, không giờ nào rảnh để lên giảng đường nghe pháp, hoặc lễ bái công phu. Dầu vậy, ông vẫn an vui, nghĩ mình ở trong đạo tràng thì phải có bổn phận giã gạo cho đồ chúng ăn và chỉ chuyên lo tu rèn môn Kiến Tánh. Nghĩa là vừa làm phận sự, vừa nhìn thẳng vào tâm mình và an trụ chỗ vô trụ. Giờ phút nào cũng liên tục như vậy. Thế là chỉ hơn 8 tháng, lòng ông hoàn toàn trong lặng…

        Đến lúc Lục Tổ và Thần Tú vâng lịnh Thầy trình Kệ Kiến Tánh thì Thần Tú làm bài kệ lạc đề vì còn có tướng và tương đối. Đây là bài kệ của Thần Tú:

                “Thân thị Bồ Đề thọ,

                     Tâm như Minh Cảnh đài.

                     Thời thời cần phất thức,

                     Vật sử nhá trần ai”.

                 (Thân ấy Bồ Đề thọ,

                   Tâm như Minh Cảnh đài.

                   Giờ giờ cần phủi sạch,

                   Chớ để vướng trần ai).

        Và đây là bài kệ của Lục Tổ:

                “Bồ Đề bổn vô thọ,

                     Minh Cảnh diệc phi đài.

                     Bổn lai vô nhứt vật,

                     Hà xứ nhá trần ai”.

                 (Bồ Đề vốn không cây,

                   Minh Cảnh cũng chẳng phải đài.

                   Xưa nay không có vật,

                   Nào chỗ vướng trần ai).

        Bài kệ của Lục Tổ là vô tướng, không còn biệt phân đối đãi, chứng tỏ Ngài đã kiến tánh. Song vì muốn bảo vệ Lục Tổ, nên Ngũ Tổ vừa bôi bài kệ của Lục Tổ, vừa nói: “bài kệ nầy cũng chưa thấy tánh và bảo đồ chúng hãy chép bài kệ của Thần Tú mà tu học, vì bài nầy hợp với người đang tu.”

        Sau đó, Ngũ Tổ đi đến chỗ Lục Tổ đang giã gạo, hỏi:

        -Ông giã gạo trắng chưa ?

        Lúc đó ông hiểu ý Thầy mình muốn hỏi Đạo xong chưa, nên trả lời:

        -Bạch Thầy ! Gạo giã đã trắng rồi, nhưng chưa có người sàng.

        Ngũ Tổ liền cầm gậy gõ vào tay cối 3 cái, rồi chấp tay sau lưng đi lên. Lục Tổ liền hiểu Thầy bảo mình đến canh ba vào ngõ sau cho Ngài truyền Đạo. Quả đúng như vậy, tới giờ đó Lục Tổ đến nơi, thấy cửa không gài, chỉ khép lại. Ngài liền hé cánh cửa lách mình vào thì Ngũ Tổ ngồi dậy và thuyết Kinh Kim Cang cho Lục Tổ nghe. Ngài nghe đến câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” thì hoát nhiên đại ngộ. Ngài liền ngâm Kệ:

        “Nào dè tánh mình vốn sẵn thanh tịnh,

          Nào dè tánh mình vốn sẵn đầy đủ.

          Nào dè tánh mình vốn không lay động,

          Nào dè tánh mình vốn không sanh diệt,

          Nào dè tánh mình hay sanh muôn pháp”.

        Đoạn Ngũ Tổ trao y bát cho Ngài và dặn dò mọi việc rồi đưa Ngài ra đi để sau nầy nối ngôi Tổ thứ sáu.

        Xuyên qua gương hạnh của Đức Lục Tổ, thấy rằng Ngài chỉ vừa làm phận sự, vừa tu trực chỉ nhân tâm mà kiến tánh thành Phật. Cho nên Đức Thầy mới dạy chúng ta lời quan thiết là vừa làm bổn phận của một con người và vừa tìm kiếm chơn tánh. Không phân biệt người tu xuất gia hay tại gia, hoặc một hình thức cố định nào và cũng không luận giờ khắc hay hoàn cảnh, miễn lúc nào cũng thực hành y như lời dạy trên, tất được thành công mỹ mãn.

        Đó là pháp tu Đại thừa đốn giáo, do Đức Lục Tổ thực hành và lưu truyền lại. Chung qui gồm vào ba điểm chánh là: vô tướng, vô trụ vô niệm.

        c)-VÔ TƯỚNG – VÔ TRỤ – VÔ NIỆM:

        Với ý pháp nói trên, Đức Giáo Chủ PGHH cũng dạy môn đồ như thế, nhưng vì muốn cho trình độ nào cũng có thể tu học được và thành quả như nhau mà Ngài dùng một thứ văn ngữ mới, tóm tắt trong hai phần:

        1-TU TRỰC THẲNG CHÂN TÁNH:

        Trước nhất là Vô Tướng, tức tu thẳng vào vô vi thật tướng, không thiên chấp ở hình thức sắc màu hay một nhân duyên tác động nào, nhưng cũng chẳng phải là không làm gì hết. Nghĩa là tu tất cả hạnh lành mà không chấp mình có tu hay có pháp để hành. Cũng không còn phân biệt nhân ngã hay ngữ ngôn đối đãi. Đó là đúng với ý câu “Thật Tế lý địa” (Thật tế lý địa, Bất nhiễm nhứt trần, Vạn hạnh môn trung, Bất xả nhứt pháp). Và chánh pháp vô vi, như Đức Thầy dạy:

        “Hiệu Lão sĩ ra đời thật tế,

          Đem lời vàng dạy dỗ dương trần”.

        Và:

        “Làm vô vi Chánh Đạo mới mầu,

          Đạo Thích Ca nhiều nẻo cao sâu,

          Hãy tìm kiếm cái không mới có”.

        Cũng như:Vô pháp tướng mới là thiệt tướng”. (Không còn phân biệt tướng người, tướng ta, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, tức chứng được cái chơn tướng Như Lai (Kim Cang Kinh).

        -VÔ TRỤ: là không trụ vào chỗ nào và cũng không trụ vào chỗ “vô sở trụ”. Cứ tùy duyên mà làm, tùy duyên mà nói, duyên hết thì buông xả, chẳng còn dính dáng vào chỗ nào hay việc làm, lời nói nào. Đức Thầy hằng cho biết:

         “Chúng sanh mê nên đem pháp thuyết,

           Giải thoát rồi pháp bất khả dùng”.

        Và:

        “Nội quang cảnh tâm vô kỳ vật…

          …Ngoại quan hình bất chấp kỳ hình”.       

        -VÔ NIỆM: Là lòng luôn chánh niệm mà tâm không chấp được chánh niệm, hoặc niệm Phật đến chỗ nhứt tâm bất loạn mà không chấp mình có niệm, đồng với lý “vô tu, vô chứng, vô sở đắc”. Chính đó là niệm cái “Bản lai thanh tịnh”, mà cái “Bản lai thanh tịnh” là cái tâm trong lặng, làu làu sáng tỏ. Không an trụ nơi nào mà nơi nào cũng có và lúc nào cũng luôn bình đẳng như như. Ấy gọi là “Phật hóa tánh tình”, tự tại giải thoát.

        2-TU TUẦN TỰ:

        Tức tu lần lần từ thấp lên cao, từ chỗ còn thấy có tu có niệm đến vô tu, vô niệm. Cách nầy Đức Thầy dạy ai muốn thấu đạt tánh Phật phải tu Thiền định, tức Chánh định. Ngài bảo:

            “Hãy rán tu tâm dưỡng tánh lành,

          Đừng cho ma nghiệp vọng tâm sanh.

          Quay về cõi phúc đường chân Đạo*,

          Phật pháp Thiền Na* dốc thực hành.”

        (*Chân đạo cũng gọi là Chân tánh.

          *Thiền Na là Thiền định).

        Và một đoạn giảng gồm nhiều pháp tu:

        “Rày tỉnh ngộ ái hà quyết dứt,(1)

          Đèn đạo tâm sáng rực soi đường.(2)

          Cầu tu cho đạt ngũ hương,(3)

          Huơi gươm trí huệ ma vương hãi hùng”.(4)

          Làm cho chúng phục tùng chơn lý,

          Trong sắc thân giám thị lục căn.(5)

          Đừng cho chúng tính lăng quằng,

          Ngoài thì chấp thủ mà ngăn lục trần.

          Phá ngũ uẩn rứt lần tham ái,(6)

          Cội sân si cũng phải tảo trừ.(7)

           Đem về giác tánh chơn như,(8)

          Kim thân thị hiện dứt trừ tử sanh”.(9)

        -Qua 4 câu thi và 12 câu giảng của Đức Thầy, xét thấy hàm chứa bao ý pháp. Là một tín đồ, chúng ta cần suy cứu để thấu đạt lý nghĩa và thực hành tất được kiến tánh.

        Đến đây, xin kể câu chuyện có liên quan một trong các phương cách đã dạy trên. Chuyện xảy ra lúc Đức Thầy mới khai Đạo tại Tổ Đình, Thánh địa Hòa Hảo. Một hôm sau giờ thuyết pháp tối, Ngài nằm nghỉ nơi ghế bố. Ông Đặng Thành Tựu từ phía sau đi tới. Ngài liền ngồi dậy, ông Tựu chấp tay xin Ngài cho hỏi ít lời Đạo lý.

        Đức Thầy vui cười nói:

        – Có phải ông muốn hỏi tu làm sao cho được minh tâm kiến tánh, phải không ?

        Nghe Đức Thầy hỏi trúng ý mình, ông Tựu thưa tiếp:

        – Tôi thiết nghĩ không riêng tôi mà bất cứ ai tu hành, chắc cũng đều muốn được như vậy.

        Đức Thầy liền nói:

        – Không ! Ở đây tôi không có dạy pháp minh tâm kiến tánh mà chỉ có dạy: “Diệt lục căn đừng nhiễm lục trần”. Đoạn rồi Ngài vừa đọc vừa giải thích đoạn giảng trong “Giác Mê Tâm Kệ” từ câu “Diệt lục căn đừng nhiễm lục trần” đến câu “Dứt được nó ấy là giải thoát cho ông Đặng Thành Tựu nghe.

        Qua câu chuyện kể trên chắc ai cũng nhận được “diệt lục căn, lục trần” là cái nhân tu hành, còn “minh tâm kiến tánh” là cái quả chứng đắc. Hễ 6 căn không còn duyên nhiễm theo 6 trần thì hành giả tự nhiên kiến tánh. Đây là một trong nhiều lý pháp của 12 câu giảng dẫn trên. Đức Thầy còn dặn dò thêm, nếu ai thiệt hành theo giáo lý của Ngài thì Ngài sẽ hướng dẫn và ủng hộ vậy.

        II- ĐỨC TIN VÀ LÒNG LÀNH :

        Đức tin là việc đầu tiên của mỗi người ai cũng cần phải có. Cổ Đức bảo: “Nhơn vô tín bất lập” (Người không có lòng tin thì chẳng làm nên việc gì). Từ một em học sinh đến hạng thầy thợ cũng vậy, đi học phải tin thầy cô giáo và tin mình có học mới khỏi dốt, còn được thi đậu làm quan, làm thầy giáo nữa; kẻ học nghề có tin thầy thợ mới nên việc.

        Đối với người tu Phật còn quan trọng hơn, hành giả phải có lòng tin Phật, tin Pháp, tin Tăng và tin mình có đủ khả năng tu thành Phật quả, mới hăng hái và kiên chí tiến hành. Song có đức tin cũng cần có trí lành đi cặp nhau, lòng mới được trong sạch, sáng suốt và chánh tín. Bằng thiếu trí lành, ắt phải bị sai lầm và mê tín theo tà đạo.

        1/-ĐỨC TIN TRONG SẠCH:

        Là đức tin chánh đáng đúng chân lý, không lợi dụng riêng tư, tin Phật và tin Thầy có lòng từ, bi, hỉ, xả, rộng độ chúng sanh, mình cũng rèn tập tâm đức ấy để thành Phật như các Ngài. Không hề sân si buồn chán hay mong cầu lợi lạc riêng mình mà có hại cho kẻ khác.

        2/-LÒNG LÀNH:

        Cũng gọi là lòng trí lành hay là hiền minh. Nghĩa là lòng mình có đủ tâm đức và trí huệ. Vừa học hỏi nhận xét giáo pháp của Tổ Thầy chính xác, để trọn niềm tin tưởng; và vừa cương quyết thực hành theo một cách nghiêm chỉnh.

        “Chuyên chú nghĩ suy từ nét dấu,

          Cố công gìn giữ tánh thuần lương”

          Hoặc là:

          “Coi rồi phải thân mình tự trị,

          Chẳng độ xong Phật khó dắt dìu”( ĐT).

        Hành giả có đủ hai điều kiện đức tin trong sạchlòng trí lành mới không bị trở ngại trên đường tiến tu lập hạnh.

        3/-TU THIÊN LỆCH CÓ HẠI:

        Lòng tin tưởng Trời Phật và Đạo pháp là quí, tốt; nhưng thiếu trí lành để suy xét, cân nhắc sẽ gặp nhiều tai hại:

        a)-Có đức tin mà thiếu lòng trí lành thì trước nhứt là bị các tà sư ngoại Đạo bức bách, cám dỗ, khiến chúng ta bỏ lòng tín ngưỡng Phật Trời. Hoặc họ bày ra bùa chú, phép linh, soi căn, coi bói, nói tướng ứng rù quến ta mê tín theo. Đức Thầy diễn tả cảnh trạng ấy:

        “Thêm còn bị lắm phen dông tố,

          Lời tà sư ngoại đạo gieo vào.

          Cho nhơn sanh trong dạ núng nao,

          Chẳng gìn chặt gương xưa mạnh mẽ.

          Dùng thế lực dùng nhiều mánh khoé,

          Cám dỗ người đặng có khiến sai.

          Chúng nằm không hưởng của hoạnh tài,

          Để khốn khổ mặc ai trối kệ”.

          Hoặc là:

          “Chúng nó xuống khuyên răn nhiều chỗ,

          Dùng phép mầu loè mắt chúng sanh.

          Ai ham linh theo nó tập tành,

          Sa cạm bẫy khó mong sống sót”.

        b)-Thứ nhì là bị “Bọn tăng đồ lợi dưỡng gạt lường(ĐT). Đây là nói đến số người cùng chung một Đạo Phật với chúng ta, nhưng họ tu sai chơn lý, không tuân lời giáo huấn của Phật của Thầy; bởi lòng tham muốn còn nặng, nên họ đã tu hành còn mong lợi dưỡng  riêng tư. Họ bày ra cúng kiếng lễ mễ, xin xăm bói quẻ, làm đám cầu siêu, cầu tài cầu phước, mạnh giỏi làm ăn, nợ duyên hạnh phúc.v.v…Ai đời chẳng gieo nhân mà muốn hưởng quả, làm sao đúng lý ?

        c)-Còn “có lòng lành mà thiếu đức tin vào công việc từ thiện của mình” cũng có hại. Tuy hành giả có biết nhận xét và lòng từ thiện, nhưng thiếu đức tin hoặc lòng tin quá yếu kém, nên khi gặp thử thách bất ngờ, như: tai nạn, bệnh tật hoặc thời gian dài dặt, rồi nãn lòng thối chí không còn hành đạo nữa. Chúng ta thường thấy nhiều người hiểu Đạo cũng rành, lý luận Đạo pháp cũng hay, thế mà chỉ tu một thời gian rồi dừng lại. Bởi trí lành ở đây mới là kiến thức, chớ chưa phải là trí huệ; mà kiến thức là vọng thức, tức là cái biết còn trong vòng phân biệt thiên chấp. Thế nên khi gặp danh, lợi, tình câu nhữ thì lòng trí lành bị giảm xuống, hoặc mất đi. Bấy giờ hành giả sẽ thối chuyển hay bỏ Đạo thôi tu là khác. Vì thế, Đức Thầy mới ân cần khuyên dạy tín đồ: Còn có lòng lành mà thiếu đức tin vào công việc từ thiện của mình thì lòng lành ấy thường hay thối chuyển”.

        Cho nên, người tu cả đức tin và lòng trí lành phải làm cho phát triển quân bình chớ để chênh lệch. Khi có đủ hai đức tánh đó rồi, hành giả nên lấy trí huệ mà quán xét, nhận định cho rõ ràng nền Đạo pháp của mình đang tu học. Xem tại sao ta phải tu, giáo pháp hành đạo đó có thực tế và đúng chân lý không ? Và sẽ đưa ta đến mục đích gì ? Có giải thoát sanh tử cho mình và cả nhân loại chúng sanh không ?

        Có nhận xét kỹ lưỡng như vậy, chúng ta mới không bị các chủ thuyết tà kiến gạt lường …đem đức tin, lòng lành cống hiến vào chỗ thấp hèn hay ông thầy mê dốt”. Đức Thầy luôn luôn nhắc nhở:

        Đạo với lý từ đây nhiều vhỗ,

          Phải lọc lừa cho kỹ mà nhờ.

          Chọn nơi nào Đạo chánh phượng thờ,

          Thì mới được thân sau cao quí”.

        III -TU HUỆ:

        Về cách tu huệ Đức Thầy dạy: Người học Đạo muốn mở mang trí huệ cần phải tìm phương pháp diệt cái vô minh”. Bởi vô minh đồng nghĩa với mê si, tức là tối tăm ngu muội:

        “Nguyên tăm tối từ hồi vô thỉ,

         Màn vô minh che mờ căn trí,

           Nên thường khi nhận ngụy làm chơn”.

          Hay là:

          “Bị vô minh vọng tưởng vạy tà,

           Nên quay lộn ta bà cõi khổ( ĐT).

        Vô minh là đối tượng của trí huệ, hễ có trí huệ thì không có vô minh, mà có vô minh là không có trí huệ. Cũng như cây đèn và bóng tối. Vậy muốn phá trừ vô minh để trí huệ sớm hiện bày, Đức Thầy có dạy các phương cách như sau:

        1- ĐIÊU LUYỆN KHỐI TINH THẦN CỨNG MẠNH:

        Tinh thần là phần sáng suốt tinh anh và cái thấy nghe hay biết trong xác thể con người, tinh thần điều khiển mọi việc hư nên tốt xấu của xác thân. Thân xác ví như cái nhà và chiếc xe, còn tinh thần là ông chủ nhà và anh tài xế. Bấy lâu nay tâm hồn của mỗi chúng ta bị vô minh che lấp làm cho mê tối bạc nhược, nay muốn chiếu phá vô minh để cho thần trí sáng tỏ thì trước phải điêu luyện tức là rèn tập cho tinh thần cứng mạnh. Vậy rèn tập bằng cách nào ?

        Bất cứ nghề chi hay làm việc gì muốn cho kết quả tốt người ta cũng phải rèn tập. Như tập lái xe, tập gánh nước, vác lúa, võ công.v.v…luyện tập từ dở đến hay, từ chậm đến lẹ, từ yếu đến mạnh, song những cái đó thuộc về hình tướng. Về mặt tinh thần tuy không thấy, không rờ mó được, song mỗi người của chúng ta tự hay biết, như: ham muốn, mừng giận, ghét thương.v.v…đã có sẵn trong mỗi người từ thuở bé. Khi ta nhìn thấy người khác có các tánh xấu ấy thì mình không đồng ý, nhưng ít ai chịu nhìn lại mình để tự thấy, tự kiểm lại các tánh xấu đó mà loại trừ. Đức Thầy khuyên nhắc:

                “Ai ai cũng rán xét mình,

         Nếu còn tánh xấu thì rinh ra ngoài”.

        Giờ đây, hành giả đã quyết chí tu hành thì ai cũng muốn diệt trừ các tánh xấu, song vì tinh thần còn yếu kém, nên không thắng phục nó được liền. Bây giờ ý chí ta phải bùng lên, phấn đấu thêm lên, lần nầy không được lần khác, bền dẻo, kiên chí, cuối cùng tất thành công. Những đức tính  đó là lực lượng mạnh mẽ của tinh thần: “Có công mài sắt chầy ngày nên kim”(Ca dao). Kết quả chẳng khác câu chuyện Ngô Công đục đá thành hang thông qua núi.(Xem Cổ học Tinh Hoa).

        Khi tinh thần được cứng mạnh ta phải tăng thêm lập trường vững chắc, ý chí đại hùng để tiến lên con đường Đạo pháp mà ta đang tu học, hầu đạt được mục đích là phá vỡ vô minh, đạt thành trí huệ. Hành giả hãy coi sự việc nầy là giềng mối duy nhứt mà suốt đời mình phải hoàn thành, không có gì đánh đổi được.

        2- DIỆT VÔ MINH VÀ CÁC TẬT XẤU:

        Muốn diệt phá vô minh, hành giả trước phải loại trừ các binh gia tướng tá của nó, tức là các tật xấu:

        a)-Thành kiến:

        Là lòng bảo thủ sự suy tư, cho thấy biết của mình là đúng là hay hơn hết, không chịu trao đổi hay tiếp nhận thêm ý kiến của người khác có kinh nghiệm hơn. Có khi cũng biết kiến thức mình còn cạn hẹp sai lệch, song vẫn kiên trì bảo thủ như bức thành kiên cố, không ai phá vỡ được.

        b)-Cố chấp:

        Bệnh cố chấp cũng là cái tật cố hữu của mỗi người. Nó là tánh hay chấp nê, câu nệ, khăng khăng không chịu đổi ý. Với mình thì chấp sự chấp lý, chấp có chấp không, chấp chay mặn hoặc chấp tâm chấp pháp. Với người ngoài thì chấp người nầy tu được, người kia tu không được. Chấp tướng nhơn, tướng ngã, tướng chúng sanh, tướng thọ giả,v.v…

        (1-Tướng Nhơn: là thấy mọi người không bằng ta, phân biệt hơn thua tốt xấu, thọ giới nhiều ít. 2-Tướng Ngã: chấp có ta và chỉ có ta là hơn hết, là đáng yêu, đáng quí; coi thường kẻ khác. 3-Tướng chúng sanh: chấp tướng chúng sanh khác xấu xí hơn ta, hoặc còn muốn sanh lên cõi trời để có tướng đẹp. 4-Tướng thọ giả: chấp mạng sống ta lâu dài, lo cầu phước báo, xem người khác, loài khác không sống bằng ta. Ai còn chấp 4 tướng ấy là còn chúng sanh, không chấp 4 tướng ấy là Phật: “Vô pháp tướng mới là thiệt tướng”).

        Cố chấp còn chỉ cho bịnh khó tánh, hay để ý tới những lỗi vụn vặt, vô tình của người khác, ít khi cởi mở, thông cảm tha thứ.

        c)-Thói quen:

        Nghĩa của chữ Tập quán, tức là những việc làm, lời nói, ý nghĩ tội ác xấu xa nhiều lần thành ra thói quen, từ quen trở thành ghiền nhiễm. Nó cũng là cái bệnh khó bỏ, người tu cần phải diệt trừ cho được các thói quen đó mới cải đổi tánh phàm phu ra Phật Thánh.

        d)-Sự chần chờ:

        Nghĩa của chữ Giải đãi, tức trù trừ lần lựa, lười biếng không siêng năng làm việc hay tu học. Nhà tu còn bịnh nầy sẽ không kịp với thời gian vô thường, như anh chàng cày ruộng xưa kia, khi thấy Phật đi đến lòng cũng muốn qui y, song bị tánh chần chờ giải đãi, nên đã trải qua bảy vị Phật ra đời, và anh cũng luân chuyển qua 91 kiếp, vẫn còn cày ruộng chưa chịu tu…

        g)-Lòng ham muốn:

        Tức là tánh tham lam, một trong tam độc (tham, sân, si). Chính nó là nguyên nhân của luân hồi sanh tử:“tham danh, tham lợi, tham sắc, tham tài…”, tham quyền cao chức trọng và mọi vật chất trên thế gian, Đức Thầy từng bảo:

        “Biết sao đầy được túi tham,

          Không ngăn không đáy càng làm không kiêng”.

        Bởi lòng ham muốn không ngằn mé và khó dừng lại được, nên đến khi chết lòng khát ái vẫn còn mà phải luân hồi trở lại. Thuyền trí huệ không bao giờ chở đưa những người còn ham muốn mọi vật chất trong trần, hay gây tội ác:

        “Bát nhã chẳng đưa người tội ác,

          Thuyền từ nào rước lại Tây Thiên.( ĐT).

        h)-Tánh kiêu ngạo:

        Đồng loại với ác ỷ ngôn, tức tánh hay cười chê, nhạo báng người khác. Ai hay dở tốt xấu gì cũng tìm cách chế nhạo cho bằng được. Ngược lại, sự yếu kém sơ thất của mình thì che dấu và hay khoe khoang tự đắc. Đây là một tật xấu mà người tu muốn có trí huệ không bao giờ dung chứa.

        i)-Tật đố:

        Là cái bệnh hay đố kỵ, ghen ghét những người tài đức hơn mình, hoặc mọi vật khác; từ tiền của, tướng mạo hay bạn bè thân tín, v.v…cũng đều đố kỵ. Từ lòng đố kỵ ganh ghét sanh ra nhiều tội ác, rồi gặt lấy quả báo chẳng những kiếp nầy còn qua nhiều kiếp khác cũng chưa dứt, như ác hữu ghen ghét thiện hữu…cho nên người tu quyết định dứt trừ bệnh tật đố.

        k)-Gièm siểm dua nịnh:

        Hai từ ngữ nầy có tương quan với nhau, tức là nói gièm nói siểm chê bai một cách gián tiếp để a dua nịnh hót với người có quyền thế, hầu được lòng và hại kẻ khác. Tật xấu nầy thường gây chia rẽ hiềm khích giữa người nầy với người khác.

        l)- Ích kỷ tư tâm:

        Là lòng riêng tư muốn các lợi lộc về mình. Từ lòng ích kỷ sanh ham muốn rồi lo tạo tác, tức là gây nghiệp nên phải sanh tử luân hồi. Ai trừ được bịnh nầy mới mong có trí huệ và giải thoát.

        m)-Sự gây gổ:

        Từ lòng sân hận sanh ra ác khẩu, tranh tụng hơn thua, rồi gây thù kết oán. Tật xấu nầy thường xảy ra tai hại sâu rộng trong quần chúng như: đoạn hết tình nghĩa bạn bè thân tộc, đốt cháy rừng công đức của mình đã tu bồi từ trước, nên hành giả phải tiêu trừ nó.(Nhất niệm sân tâm chi hỏa, năng thiêu vạn khoảnh công đức chi sơn).  

        n)-Mê đắm trong bể dục tình và sự phiền não làm cho náo loạn cõi lòng:

        Trong muôn ngàn phiền não, chỉ có lòng ham muốn tình dục là nặng nề hơn hết (Hải trung sanh tử ái dục đệ nhất). Chính nó là gốc sanh ra vô số phiền não khác, nó làm cho tâm thần dao động khiến mờ đục trí huệ, hành giả phải nhổ tận gốc nó mới mong giải thoát an vui.

        Nói tóm lại, các thói hư tật xấu nói trên là con đẻ của vô minh. Cho nên Đức Thầy mới dạy chúng ta: “Nếu bày trừ được nó rồi trí huệ tất mở mang vậy”.

        3-TÂM TRÍ SONG HÀNH:

        Đến đoạn nầy Đức Thầy dạy hành giả phải tu cả tâm và trí một lượt, như Ngài bảo:

        “Người có tâm nếu không tập suy gẫm cho mở trí thì hay dễ bị lường gạt.

          Người có trí mà vô tâm thì hay xảo trá. Nên trí và tâm người học Đạo cần tìm cách làm cho nó được phát triển cả hai để lấy tâm làm chủ trì mọi việc, lấy trí mà phán xét mọi việc trước khi ta sắp đưa cho tâm chủ trì. Được như thế chắc chắn ta học Đạo mau thành công đắc quả”.

        Chúng ta thử ôn lại câu chuyện của Thầy trò Tam Tạng đi thỉnh Kinh. Nếu chỉ một mình Tam Tạng, chẳng có Tôn Ngộ Không thì làm sao Tam Tạng biết đường đi đến Tây phương và lấy ai trừ yêu đuổi quỉ, hay biết non tiên cảnh Phật để cầu khẩn các Ngài xuống trợ giúp. Còn Ngộ Không, lúc chưa được Tam Tạng làm Thầy thì tánh tình ngang bướng, chọc Trời khuấy nước, loạn thiên cung; gạt chư Tiên ăn đào và uống Tiên tửu, đòi làm Tề Thiên Đại Thánh. Chỉ có Phật Tổ mới thâu nhốt y được dưới núi Ngũ Hành và sau nhờ Quan Âm độ rổi, cho làm học trò Tam Tạng để phò tá Thầy đi thỉnh Kinh chuộc tội. Khi Tam Tạng và Ngộ Không hiệp lại mới đi đến Tây phương, thỉnh được 3 tàng Kinh điển đem về.

        Đây là câu chuyện triết lý, Tam Tạng dụ cho cái tâm, còn Ngộ Không dụ cho cái trí. Nếu có tâm từ mà thiếu trí tuệ thì như Tam Tạng thiếu Ngộ Không. Hoặc chẳng nghe lời, tức là người tu không rèn tập được trí huệ thì chẳng phân biệt chơn giả, Phật ma, nên Tam Tạng bị quỉ yêu gạt bắt liên miên. Bằng có trí mà thiếu tâm cũng có hại. Như có Ngộ Không (trí) mà chẳng có Tam Tạng (tâm) làm chủ, điều khiển thì Ngộ Không hay làm xằng, có lúc còn muốn trở về Thủy Liêm động làm chúa yêu. Cho nên khi tâm tín và trí huệ phát triển quân bình, tức đồng hòa vào một thể, bấy giờ hành giả đạt thông Tam Tàng Kinh pháp nơi tự tánh.

        Tóm lại, tâm ví như ông Vua, trí như vị Tể Tướng và cũng như ông chủ nhà và người quản gia. Tâm đức và trí huệ gồm tu thì hành giả có đủ: Bi, Trí, Dũng, cũng gọi là Đại hùng, Đại lực, Đại Từ bi, tức quả vị chánh giác sẽ thành công. Đức Thầy hằng tỉnh thức:

        “Phải chổi dậy nương dây hùng tráng,

          Chữ đại hùng, đại lực từ bi”.

        Bởi có tâm đức mới làm chủ được sáu căn, có hùng lực của trí huệ mới thắng được tam bành lục tặc, trừ sạch thập tam ma (thất tình lục dục)(Xem chú thích tại Q.Th. Tập 3/3, tr. 20 &297). Và soi tan ngũ uẩn, vượt sông mê, sang bờ giác. Do đó Đức Thầy mới dạy chúng ta: Nên trí và tâm người học Đạo cần tìm cách làm cho nó được phát triển cả hai”. 

        4- CHỌN THẦY QUI Y:

        Đến đây Đức Thầy nhắc lại giai đoạn đầu của người mới phát tâm quay về nẻo thiện, cần phải chọn nơi nào chân chánh để nương theo;

        “Đừng bạ đâu tin bướng nghe càn,

        Làm ngu muội đọa thân uổng kiếp”.

          Mà phải:

          “Chọn nơi nào Đạo chánh phượng thờ,

          Thì mới được thân sau cao quí”.

        Để tỏ rõ vấn đề, nhà tu cần hiểu thế nào là mê tín và thế nào là chánh tín ?

        a)-Qui y mê tín : Có hai cách :

        1/-Mê tín qui y theo chánh Đạo: là “Thấy ai theo mối Đạo nào đông đảo rồi ta cũng vội vàng theo Đạo ấy mà lúc đó ta chưa hiểu giáo lý ấy như thế nào” Hoặc: “…Thấy người ta thờ Phật rồi vội vã lập bàn thờ Phật, mà chưa hiểu ông Phật thế nào; và tại sao phải thờ kính Đức Phật. Qui y như thế gọi là mê tín qui y theo chánh Đạo, mặc dù chúng ta đang thờ học Đạo với ông Thầy ấy rất chánh đáng. Đức Phật xưa hằng cảnh giác thiện tín: “Nếu ai chưa rõ Ta mà bảo là tin Ta thì tội ấy còn hơn hủy báng Ta”.

        2/-Mê tín qui y theo tà Đạo: Là hạng người chưa theo Đạo nào hoặc có theo đạo, nhưng thấy đạo khác nổi lên, ông thầy ấy chủ xướng thinh âm sắc tướng, đức hạnh chẳng ra gì, lời dạy mập mờ, đường lối không rõ rệt mà lại đắc nhân tâm là nhờ dùng những bùa mê ảo thuật, lòe mắt thiên hạ. Hoặc nói tướng ứng, bịa đặt điều linh thính rồi ta vội vàng qui y. Đó gọi là mê tín qui y theo tà Đạo.

        b)-Qui y chánh tín:

        Là trước khi thọ giáo với Đạo nào hay ông Thầy nào, ta hãy lấy trí huệ mà suy xét, tìm hiểu mối Đạo ta định theo, phải có nền giáo lý chơn chánh, ông Thầy ta muốn học phải có nhân phẩm cao thượng. Nhứt là những lời chỉ giáo đúng chơn lý, có tôn chỉ mục đích rõ rệt, giúp chúng ta tu học đến chỗ giải thoát.

         Vậy trước khi thờ học Đạo nào ta hãy lấy trí huệ nhận xét một cách tinh tường và khi đã qui y thì phải hành y theo lời chỉ giáo của Tổ Thầy:

                “Qui y thì khá làm y,

          Giữ lòng thanh tịnh từ bi giúp đời”.

        Nói tóm lại qui y chánh tín là bằng cách có suy xét kỹ càng, chừng hiểu biết rõ ràng mới qui y và hành theo. Còn qui y mê tín là không nhận xét cân nhắc kỹ lưỡng, cứ “tin bướng nghe càn”.

        IV-CHUYỂN HÓA TƯ TƯỞNG

        Theo Đức Thầy dạy: “Sự đầu tiên của người hành đạo là cốt sửa những tư tưởng, tìm cách đánh đổ tư tưởng xấu xa, đem thay vào những tư tưởng ôn hòa, Đạo đức”.

        Để thi hành lý pháp nầy, trước nhứt hành giả phải biết mặt mày của các tư tưởng xấu xa ra sao. Người chưa giác ngộ lẽ Đạo thì lúc nào tâm tư cũng nghĩ tưởng mơ mộng những vật chất tiền tài, quyền cao chức trọng, vợ đẹp hầu xinh…Bất cứ cái gì làm cho ta được cao sang sung sướng và thỏa mãn lòng khát ái thì tha hồ mà mơ ước, nghĩ tưởng. Không xét rằng các tư tưởng đó phần nhiều là lợi kỷ tổn nhân, chính nó làm cho tâm hồn ta đắm chìm trong vô minh dục vọng và sanh tử luân hồi.

        Khi hiểu được tướng trạng và tác hại của các tư tưởng xấu ác, hành giả hãy gấp rút thay đổi. Căn cứ trong giáo lý của Đức Thầy chỉ dạy, chúng ta có thể rút ra một ít phương cách để áp dụng:

        1/-HÀNH CHÁNH TƯ DUY:

        Đức Thầy dạy;

        “Chánh Tư duy mục ấy thanh cao,

          Hãy tưởng nhớ những điều đáng nhớ”.

        Và: Tâm cần phải bình, tánh cần phải tịnh. Giữ tư tưởng cho thanh cao, trí rán tìm chân lý…” Vậy thì hành giả lúc nào cũng nghĩ tưởng kỹ thuật đức tánh cao cả, như: “Từ bi, Bác ái, dĩ đức háo sanh, khoan hồng đại độ” hoặc luôn tư tưởng đến việc Tìm phương cứu giúp sanh linh trong vòng trầm luân oan nghiệt. Đồng thời lo suy tìm “…con đường giải thoát cho mình, bằng cách lạc Đạo an bần, xả thân tu tỉnh”.

        2/-HÀNH CHÁNH NIỆM:

        Đề chấm dứt những mơ ước niệm tưởng xấu xa, hành giả phải luôn ghi nhớ những việc chân chánh, như: nhớ tưởng các phương pháp tu hành, nhớ Đức Phật, Đức Thầy đã đầy lòng từ bi bác ái, và đã dày công khai hóa chúng ta. Giờ phút nào cũng chạm khắc vào lòng các lời dạy bảo để thực hành cho kỳ được. Hoặc dùng chánh niệm quán xét:

         “Tâm chánh niệm thường thường suy nghĩ,

          Vật ở trần như bọt nước làn mây.

          Thân ta còn rày đó mai đây,

          Của ấy cũng khi tan khi hiệp”.( ĐT)

        Nếu tâm trí chúng ta luôn suy xét, tưởng nhớ các phương cách nói trên thì những tư tưởng xấu xa, quấy ác đâu có kẽ hở chen vào; ấy gọi là đánh đổ nó ra ngoài.

        3/-NIỆM PHẬT TAM MUỘI.   

        Cách niệm Phật nầy gọi là niệm Phật chánh định, tức là tâm hành giả luôn nhớ tưởng 6 chữ Nam Mô A Di Đà Phật cho đến khi “nhất tâm bất loạn”, không để một tư tưởng sai lầm, xấu ác nào chen vào. Hoặc niệm vào một tiếng niệm Phật thay một niệm chúng sanh ra, cứ thay hoài, thay mãi cho đến khi không còn một niệm chúng sanh nào mống khởi. Lúc nào ta cũng nhìn thấy và nghe rõ cái tâm ta, đang tưởng Phật liên tục như vậy trong tứ tướng oai nghi (đi, đứng, ngồi, nằm), uống ăn, ngủ thức, …sẽ được kết quả như ý. Đức Thầy thường nhắc nhở:

        “Muốn niệm Phật chẳng cần sớm tối,

          Ghi vào lòng sáu chữ Di Đà.

          Thì hiền lương quên mất điều tà,

          Đặng hạnh phúc nhờ lòng cố gắng”.

        Nếu hành giả tưởng nhớ Phật được liên tục như vậy thì các tư tưởng xấu ác sẽ tiêu vong.

        Tóm lại, trong các phương tiện của Tổ Thầy chỉ dạy cải đổi tư tưởng tà xấu ra chánh chơn thiện mỹ. Ở trên chỉ rút ra 3 phương thức vừa giản tiện vừa xác thực. Nếu ai chịu cố gắng thực hành, tất loại trừ được các tư tưởng xấu ác và trí huệ phát khai mà thành Đạo giải thoát tại thế gian.

 

        TỔNG KẾT:

        Tóm tắt bài: “Trong Việc Tu Thân Xử Kỷ” trước nhất Đức Thầy đưa ra lời dạy quan trọng là mỗi tín đồ phải biết rõ trong các phương cách tu hành. Cái nào là phụ thuộc, cái nào là chánh yếu, đâu là sự tướng, đâu là nội tâm và chân lý để đi vào chánh pháp vô vi, đúng theo chân truyền tâm ấn của Đức Phật khi xưa.

        – Phần chính yếu theo Tôn chỉ Đức Thầy đã đề vạch, là vừa thu hành phận sự thực tế của một con người đứng giữa thế gian, và vừa trực nhận được chân tánh giác ngộ trong tâm thể của mỗi hành giả.

        – Về pháp tu, tuần tự Ngài dạy môn đồ cần làm cho đức tin và lòng lành được phát triển quân bình cả hai. Kế đó là tu rèn trí huệ để chiếu phá vô minh dục vọng mà tâm và trí phải song hành mới mong kết quả. Ngài cũng ý thức những người mới phát tâm, hãy cẩn thận xét suy, chọn lựa ông Thầy cũng như nền Đạo chân chánh mới qui y và phải tu chánh tín chờ đừng tu mê tín.

        – Sau chót là Ngài dạy cách tu giản tiện và tốt nhứt, là chuyển hóa tư tưởng xấu xa, quấy ác, ô nhiễm trở nên tốt lành cao khiết. Ấy là thành Đạo giải thoát.

          Tổng kết bài Pháp luận trên đây là một đề tài tổng quát, tuy thấy Đức Thầy dạy nhiều vấn đề và hình như rời rạc, nhưng sau khi suy nghiệm kỹ, thấy Ngài có một dụng ý sâu sắc. Ngài giảng huấn rõ về đường lối “HỌC PHẬT TU NHÂN”. Nghĩa là hãy lấy tâm Phật mà hành xử Đạo Nhân, tức dùng tư tưởng nhân hòa, tinh thần hỷ xả, bình đẳng từ bi mà tiếp xử hầu hết nhân loại chúng sanh. Ngài dung thông cả sự lẫn lý, cả đốn pháp lẫn tiệm pháp để rộng độ các giới tín đồ và mọi tầng lớp dân sinh. Tuỳ theo cơ duyên thích hợp của mỗi hành giả, ai cũng có thể tu học được và đưa đến kết quả viên mãn như nhau.

                                                 CHÚ THÍCH :

         Các từ ngữ trong bài phần nhiều đã có giải trong phần lược ý, cũng có một số đã được chú thích rồi, nên ở đây chỉ chú thích thêm một ít thôi.

         ÁI HÀ: Lòng thương yêu luyến ái tình dục tràn ngập như sông biển, kinh xưa có câu: “Ái hà thiên xích lăng, khổ hải vạn trùng ba” Đức Thầy nay cũng nói: “Bể ái hà gươm linh sớm dứt”.

         ĐÈN ĐẠO TÂM: Tâm trí sáng suốt. Chỉ cho ánh sáng của trí huệ và chơn lý (Đạo). Đức Thầy có câu: “Ngọn đèn chơn lý hết lu”.

         NGŨ HƯƠNG: Năm phần chơn hương nơi tâm của mỗi người, gồm có:

        1- Giới Hương: Tâm không còn tham, sân, si hay các ý nghĩ tà quấy, sát sanh, đạo tặc…

        2- Định Hương: Đối với các trần cảnh như: lục trần hoặc các hiện tượng tốt xấu, lành dữ, tâm mình vẫn an nhiên không dính mắc loạn động.

        3- Huệ Hương: Tâm trí mình không bị ngoại cảnh ngăn che, hay lôi cuốn. Hằng lấy trí huệ xem soi tự tánh, chẳng tạo các điều ác, tuy tu các hạnh lành mà lòng không chấp trước. Kính người trên, nghĩ kẻ dưới hay thương xót và giúp đỡ người nghèo đói, bệnh tật.

        4- Giải Thoát Hương: Tự tâm mình đã không dính mắc vào các việc dữ hay lành, cũng chẳng chấp có không, động tịnh, lòng luôn tự tại, không gì ngăn ngại được.

        5- Giải Thoát Trí Kiến Hương: Tự tâm mình đã không còn thiên chấp, dính mắc những cái có không động tịnh; nhưng cũng cần học rộng nghe nhiều, thấu suốt bổn tâm, thông đạt lý Phật, hòa sáng tiếp người, không hề phân biệt nhân ngã. Tâm trí lúc nào cũng an nhiên sừng sững tiến thẳng đến ngôi chánh giác.

         MA VƯƠNG: Vua các loài ma quỉ, tên là Ba Tuần ở từng Trời thứ sáu, hay xuống thế gian phá hại Đạo Phật. Chữ Ma Vương ở đây chỉ cho tà kiến tam độc (tham, sân, si). Đức Lục Tổ bảo: “Tà kiến Tam độc thật Ma Vương”.

        GIÁM THỊ: Người trông coi trật tự trong trường sở, chỉ huy điều khiển các học sinh. Giám thị ở đây chỉ cho cái tâm làm chủ sáu căn (lục tặc).

         NGŨ UẨN: Cũng gọi là Ngũ ấm, là năm cái che đậy chân tánh của mình. Kinh Phật giải là: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Đức Thầy giải là Tham, Sân, Si, Nhân, Ngã. (Xem thêm phần Chú giải trong Giác Mê Tâm kệ, Q. Th. Tập 3/3, tr. 47).

         TẢO TRỪ: Quét dọn. Nghĩa của chữ “Tảo Chủ”, là chổi quét, tức là quét sạch hết vọng tâm phiền não, như chuyện ông Bàn Đặt Ca Tôn Giả chỉ tu hai chữ “chổi quét” có mấy ngày mà chứng quả A La Hán.

         GIÁC TÁNH CHƠN NHƯ: Cũng gọi là chơn như thật tướng. Chỉ cho tánh Phật hay tạng tánh Như Lai.

         KIM THÂN: Thân Kim cang của Phật, tượng trưng cho lòng cứng chắc. Có ba đặc tánh siêu thắng cao khiết:

        1-Không hư hoại.

        2-Hơn hết các món báu.

        3-Hơn hết các chiến cụ.      
                                                             *

*    *

LỜI CUỐI QUYỂN TRUNG

 

        Có nghiên cứu kỹ qua loạt bài trong Quyển Sáu và các bài Pháp ngữ do Đức Thầy sáng tác vào năm 1942 và 1945, chắc các bạn đều thấy đây là phần căn bản, là Tôn chỉ và Yếu Pháp trong Giáo lý PGHH và cũng thấu rõ Ngài dạy gồm đủ các pháp tu từ Nhân thừa tới Tối thượng Nhứt thừa, không thiếu sót một phương tiện nào.

        Thế mà thời gian qua có nhiều bạn bên ngoài, cũng như trong nội tình của Đạo nhận thức chẳng giống nhau. Ấy là bởi căn duyên và trình độ của mỗi hành giả không đồng nhau.

        – Có người cho rằng nếu còn tu tại gia và lo hành xử Đạo Nhân thì làm sao giải thoát được.

        – Số khác thì bảo giữa thời Hạ ngươn mạt pháp, chỉ lo tu Nhân cho rồi, chớ tu Phật không kịp đâu !

        Theo ý kiến của soạn giả là trước khi khai vạch con đường để đi đến mục đích, Đức Giáo Chủ PGHH đã từng bước qua và cũng đã thực nghiệm một cách chính xác, rõ ràng mới đem giáo hóa nhân sanh:

        Kinh nghiệm rồi ta mới diễn ca”.

        Các bạn thử đọc lại một đoạn văn của Ngài: “…Đức Phật chẳng bao giờ ngỏ ý rằng “Các người hãy lạy thờ ta cho nhiều rồi ta sẽ độ giúp các người” mà trái lại, Ngài dạy rằng: “Các người nên hiểu biết phận sự con người phải làm gì trong kiếp sống và tìm kiếm chân tánh của mình”. Thiệt hành theo giáo lý của Ngài thì Ngài sẽ hướng dẫn và ủng hộ vậy”.

        Căn cứ theo đây, mỗi hành giả vừa xây đấp cho mình có một nền tảng chắc chắn (phận sự con người) ấy là tu Nhân. Và vừa lo kiến tạo tòa lâu đài Phật Đạo (tìm kiếm chân tánh) đó là tu Phật. Vậy ta phải tìm kiếm chân tánh ở đâu ?

        Đức Thầy có chỉ rõ vị trí:

        Thấy Đạo lý chớ nào thấy tánh,

           Còn ẩn nơi tim óc xác phàm”.

        Cho nên:Hãy bền lòng tầm Phật trong tâm và lo tu sửa chuyển hóa: “Tu cầu Phật hóa tánh tình, Lưới mê chẳng buộc nhẹ mình tiêu dao”.

        – Đây quả là Ngài dạy đúng theo tâm ấn: ‘Chánh pháp nhãn tàng Niết Bàn Diệu Tâm…” của Đức Phật đã truyền qua 33 vị Tổ, như Tổ Đạt Ma đã nói:

        “Bất lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền.

        Trực chỉ nhân tâm, Kiến tánh thành Phật”.

        Đức Thầy nay luôn kêu gọi: Vô vi chánh Đạo hỡi người ôi !” Và:

        “Tìm tõi Đạo mầu trong Phật pháp,

             Cho đời hiểu rõ lý chơn không”.

        Về chương trình cải tiến nhân sinh Ngài chủ trương: “Đời Đạo liên quan rạng chói ngời”. Hành giả đem Đạo hòa đời để cứu đời và thi hành công hạnh Đại thừa Bồ-Tát Đạo. Điều tất yếu là lúc nào cũng an nhiên: “Cư trần bất nhiễm, lẫn tục đừng mê Và:

         “Nhân ngã, ngã nhân đừng cách biệt,

           Sắc không không sắc chớ lìa xa”. Hoặc là:

        “Vô pháp tướng mới là thiệt tướng”.

        Hơn một lần Ngài đã dạy:

        Với sự hành đạo của tôi, cảnh sống nào tôi cũng có thể sống được.Cái hành đạo đúng theo ý tưởng xác thực của nó là làm thế nào phát hiện được những đức tánh cao cả và thực hành trên thiệt tế bằng mọi biện pháp để đem lại cái phước lợi cho toàn thể chúng sanh thì đó là sự thỏa mãn trong đời hành Đạo của mình, chớ những sự tùy tiện về vật chất đối với tôi, không có nghĩa lý gì hết”.

        Vả lại, một đấng từ bi cứu thế lúc nào cũng muốn rộng độ các tầng lớp chúng sanh vượt khỏi vòng khổ đau sanh tử. Nhưng vì cơ duyên, trình độ của mỗi hành giả chẳng đồng nhau, nên sự nhận định giáo lý và phát tâm hành Đạo có khác nhau. Song dù cơ duyên, tâm nguyện cỡ nào, hay muốn áp dụng phương tiện gì, tất cả đều phải tiến theo một lộ trình “Học Phật Tu Nhân” đó, và quyết định không để bước ngoài 2 bờ lề “Tám Điều Răn Cấm”, tất ai ai cũng đều có kết quả. Nghĩa là có tu có hưởng, tu tới đoạn nào hưởng đoạn đó, tu tột đỉnh thì kết quả tột đỉnh. Có điều cần chú ý là đã quyết tâm tu tiến, cần thường xem coi kệ giảng và phải:

        “Chuyên chú nghĩ suy từ nét dấu”. Hoặc là:

        “Nghe cạn lời chớ có mơ hồ,

          Tìm hiểu nghĩa làm theo đắc Đạo”.           
        Thêm nữa, nếu người đứng xa nhìn bên ngoài cái Đạo thì thấy lối tu của PGHH quá thông thường: chỉ mang hình thức tại gia, vừa sanh nhai vừa tu. Cách thờ phượng giản dị, sống hòa hợp với đại chúng, không có sắc thái riêng biệt; tất cả môn đồ đều đối xử bình đẳng như nhau. Lời giáo lý thì bình dân vắn tắt, chỉ vỏn vẹn một quyển Thi Văn Giáo Lý, dầy khoảng 500 trang.

        Song nếu ai chịu khó nghiên cứu sâu vào bên trong của Đạo và thử thực nghiệm một ít điều, sẽ thấy Đức Giáo Chủ áp dụng một phương thức rất hòa hợp với căn cơ đại chúng; và giúp cho các giới tu hành một sự kết quả mầu diệu vô giá !

        Tóm lại, PGHH với Tôn chỉ “Học Phật Tu Nhân”, Đức Thầy dạy tín đồ hãy lấy tâm Phật mà hành xử Đạo Nhân. Ban rộng tình thương yêu bình đẳng đến vạn loại chúng sanh, như Ngài đã nói rõ:

        “Đem nguồn sống mới cho nhơn loại,

           Để tiến, tiến lên cõi Đại đồng”.

        Và:

        “Tình yêu mà chẳng riêng ai cả,

          Yêu khắp muôn loài lẫn chúng sinh”.

                                        (SOẠN GIẢ)                            
                        HẾT QUYỂN TRUNG.