Phật Giáo Hòa Hảo Trung Ương Hải Ngoại

a) ÐHGC – Khải ngôn – Thay lời tựa

ÐHGC – KHẢI NGÔN – THAY LỜI TỰA

Vài Nét Về Ðức Huỳnh Giáo Chủ
Khải ngôn
Thay lời tựa

______________________________________________________________________________

Vài Nét Về Ðức Huỳnh Giáo Chủ
[trở lại đầu trang]

Người sáng lập Ðạo Phật Giáo Hòa Hảo là Ðức Thầy tục danh Huỳnh Phú Sổ. Sanh ngày 25 tháng 11 năm Kỷ Mùi (15-1-1920) tại làng Hòa Hảo, tỉnh Châu Ðốc, một tỉnh xa xôi giáp biên thùy Việt-Miên thuộc miền Nam Việt.
Ngài là trưởng nam của Ðức Ông Huỳnh Công Bộ và Ðức Bà Lê Thị Nhậm; một gia đình trung lưu, nhiều phúc hậu và nhiều uy tín với nhân dân địa phương.

Thuở nhỏ, vừa học xong đến hết bậc Tiểu học thì đau ốm liên miên, nên Ngài phải rời nhà trường về dưỡng bịnh. Từ 15 đến 18 tuổi, Ngài không lúc nào dứt được cơn đau và không một lương y nào trị được.

Năm 1939, sau khi hướng dẫn thân phụ đi viếng các am động miền Thất sơn và Tà lơn – những núi non được nổi tiếng linh thiêng hùng vĩ – Ngài tỏ ra đại ngộ. Ngày 18/5 Kỷ Mão (1939), Ngài chính thức mở Ðạo. Bắt đầu là công việc chữa bịnh. Ngài chữa lành được các chứng hiểm nghèo với phương pháp thật giản đơn là chỉ dùng lá cây, nước lã, giấy vàng, khiến cho các Bác sĩ Tây y, các Dược sư Ðông y lẫn các danh gia phù thủy đều phải kinh dị.

Song song với việc chữa bịnh, Ngài thuyết pháp thao thao bất tuyệt. Nhiều thi sĩ văn gia hoặc luật gia nghe tiếng, đến chất vấn, đều phải nhận Ngài là một bậc siêu phàm.

Cũng từ năm 1939, Ngài sáng tác thật nhiều kệ giảng, nội dung tiên tri chiến cuộc sẽ tràn lan, nhân loại sẽ điêu linh và kêu gọi mọi người nên bỏ dữ về lành, thực hành tứ ân, trau dồi thiền tịnh để trở thành thiện nhân trong xã hội và tiến đến sự nhập diệu cõi đạo.

Nhìn qua công đức giảng dân cứu chúng, người ta thấy Ngài chữa được hằng vạn chứng hiểm nghèo, thuyết pháp hằng ngàn lần trước đại đa thính chúng và sáng tác sáu quyển Kệ Giảng cùng với hằng trăm bài thi ca, văn, chú có giá trị siêu việt.

Văn chương của Ngài cực kỳ bình dân nhưng rất hàm súc hấp dẫn. Ngài viết không cần giấy nháp.

Giáo Pháp của Ðức Giáo Chủ tuy cao siêu nhưng không kém phần thực tế, có thể áp dụng cho bất cứ nơi nào trên thế gian. Ngài là một nhà đại cách mạng tôn giáo. Vì trước khi Ngài ra đời, Ðao Phật Việt Nam bị đình đốn sai lạc, và Ðạo Phật Thế giới chưa nói tới việc canh tân. Ngài đã cắt bỏ tất cả những nghi lễ phiền toái mà nguyên căn không phải của Ðức Thích Ca chủ trương, đồng thời còn canh tân nhiều điểm trong phương pháp thực hành đạo Phật mà trước kia không hề có.

Nhờ Giáo Pháp thích thời đó nên chỉ trong một thời gian ngắn, Ngài thu phục được hai triệu tín đồ tại miền Nam Việt Nam và ảnh hưởng mỗi lúc càng lan rộng thêm ra.

Vì Ngài được thiên hạ quá hoan nghinh nên nhà đương cuộc bắt đầu để ý đến sự bành trướng lạ thường của phong trào tôn giáo Phật Giáo Hòa Hảo, nên một biện pháp chánh trị đã được đem ra thi hành và Ngài phải bị quản thúc tại làng Nhơn Nghĩa (Cần thơ).

Ở đây, Ngài lại được người ta tôn sùng hơn trước nữa, làm cho nhà cầm quyền phải đem Ngài an trí tại nhà thương Chợ Quán. Sau đó, Ngài lại bị dời về Bạc Liêu đến năm 1942.

Khi người Nhựt nhúng tay vào thời cuộc Ðông Dương trong hồi thế giới chiến tranh kỳ nhì, họ cưỡng bách đem Ngài về Saigòn thì Ngài buộc lòng tá túc tại Hiến binh Nhựt để chờ đợi thời cơ thuận tiện ra gánh vác việc nước nhà. Khi đó Ngài có làm câu đối để diễn tả hoàn cảnh của mình:

“Trương Tiên qui Hớn phi thần Hớn
Quan Ðế cư Tào bất đê Tào”

Sở dĩ người Nhựt muốn thi ân với Ngài là vì họ muốn gây cảm tình với khối tín đồ khổng lồ của Ngài để sau nầy có thể lợi dụng. Nhưng đã là một người sáng suốt thì Ngài đâu có để cho bọn Nhựt lôi cuốn trong việc chuẩn bị của họ chống Ðồng Minh.

Sau cuộc đảo chánh mùng 9 tháng 3 dương lịch 1945, Ngài giữ một thái độ hết sức dè dặt vì Ngài biết chắc chắn rằng người Nhựt thế nào cũng thất trận. Lúc đó, Ngài nói một lời tiên tri rất hài hước “Nhật Bổn ăn không hết con gà”. Mà thiệt vậy ! Vì năm Dậu (con gà) mà cũng là năm 1945 chưa hết, thì số phận nước Nhựt đã được định đoạt.

Năm 1945, “Vì lòng từ ái chứa chan, thương bách tính đến hồi tai họa“, nên Ngài đứng ra bảo vệ quốc gia và cứu nguy dân chúng. Ngài từng thành lập Phật Giáo Liên Hiệp Hội để đoàn kết đạo Phật, và Việt Nam Ðộc Lập Vận Ðộng Hội để vận động cuộc độc lập nước nhà.

Sau khi Nhựt Hoàng đầu hàng Ðồng Minh không điều kiện, nước Việt Nam phải sống một thời kỳ bất ổn định. Ðồng bào Việt Nam đương lo sợ cảnh dịch chủ tái nô, Ðức Huỳnh Giáo Chủ liền hiệp với các lãnh tụ đảng phái và tôn giáo để thành lập Mặt trận Quốc Gia Thống Nhứt hầu lên tiếng với ngoại bang. Mặt trận này lại sáp nhập vào Mặt trận Việt Minh mà chính Ðức Huỳnh Giáo Chủ là vị đại diện đầu tiên ở Nam Việt.

Sau sự thất sách của Hồ chí Minh với Hiệp ước mùng 6 tháng 3 năm 1946, tạo cơ hội thuận tiện cho thực dân trở lại, Ðức Huỳnh Giáo Chủ liên kết với các lãnh tụ quốc gia để thành lập Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp.

Mặt trận nầy được quần chúng nhiệt liệt hoan nghinh nên lại bị Việt Minh giở ngón độc tài giải tán. Họ liền thành lập Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam Hội để che đậy màu sắc đỏ của Đệ Tam Quốc Tế và để làm cho quần chúng quên cái dĩ vãng đẫm máu của các tướng Cộng sản hồi cuối năm 1945.

Năm 1946, vì muốn gây cuộc đoàn kết giữa các tầng lớp đồng bào, Ngài ưng thuận tham gia Ủy Ban Hành Chánh với trách vụ Ủy Viên Đặc Biệt.

Ngài liên kết các chiến sĩ quốc gia với khối tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo để thành lập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Ðảng (21-9-46), với chủ trương công bằng xã hội và dân chủ hóa nước Việt Nam. Ngài chẳng những là một nhà cách mạng tôn giáo anh minh mà còn là một nhà lãnh tụ chánh trị đa tài. Ðọc Tuyên ngôn, Chương trình của Ðảng Dân Xã do Ngài đưa ra, dù cho đối phương hay những người khó tánh, đều phải công nhận Ngài có một bộ óc cải tiến vượt bực và nhận định sáng suốt phi thường.

Ðồng thời, Ngài cũng gởi người ra hải ngoại, đoàn kết với các nhà cách mạng quốc gia lưu vong để thành lập Mặt Trận Thống Nhứt Toàn Quốc. Giải pháp quốc gia cũng do công trình của Ngài và các nhà cách mạng xuất dương mà thực hiện đến ngày nay.

Bởi đường lối của Ngài trái ngược với chủ trương Cộng sản và bởi Giáo thuyết của Ngài có thể gây đổ vỡ cho chủ nghĩa vô thần, Cộng Sản đã tìm mọi cách làm hại Ngài, nhưng họ đều không làm gì Ngài được.

Ðầu năm 1947, các tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo ở miền Tây chống lại chủ trương độc đoán của các Ủy ban Việt Minh vì họ áp dụng chính sách độc tài trong sự tổ chức và cai trị quần chúng. Muốn tránh cuộc cốt nhục tương tàn, Ðức Huỳnh Giáo Chủ về miền Tây Nam Việt với hảo ý trấn tĩnh lòng phẫn nộ của tín đồ P.G.H.H. và để giảng hòa hầu đoàn kết chống thực dân cho hiệu lực. Nhưng ngày 25 tháng 2 nhuần, năm Đinh Hợi (16- 4- 47), Ủy ban Hành chánh Việt Minh âm mưu bắt Ngài tại Ðốc Vàng Hạ (vùng Ðồng Tháp).

Từ đó không ai rõ tin tức chi về Ðức Huỳnh Giáo Chủ, nhưng toàn thể tín đồ của Ngài không ai tin rằng Việt Cộng có thể làm hại Ngài được. Và muôn người như một, đang mong đợi một ngày về trong sứ mạng vinh quang nhất của Ngài.

Quyển sách Cách Tu Hiền sau đây là một trong nhiều tác phẩm của Ngài, đã được tái bản trên 300 lần với ấn lượng trên 800.000 quyển bằng tiếng Việt Nam. Nó ngắn gọn nhưng đủ, rõ những điều cần thiết trong nghi thức tu hành theo Đạo Phật Giáo Hòa Hảo.

Thánh địa Hòa Hảo, ngày 1-1-1966.
Ban Phổ Thông Giáo Lý Trung Ương
Giáo Hội P.G.H.H.
(Nhiệm kỳ I, 1964 – 1966)
Kính đề

KHẢI NGÔN
[trở lại đầu trang]

Từ tháng 5 năm Kỷ-Mão (1939), sau khi mở đạo, Ðức Giáo-Chủ đứng ra chữa bịnh độ đời. Tuy Ngài không có để tâm nghiên-cứu Ðông-y cũng như chẳng hề học Lỗ-ban phù-thủy, nhưng bằng phương-pháp chữa trị thật giản-đơn như giấy vàng, nước lã, lá xoài, lá ổi, lá bưởi, lá mít, bông trang, mà trị được hằng vạn chứng hiểm-nghèo như bịnh tà, bịnh suyễn, bịnh phong, bịnh dịch, bịnh dư ruột v.v… cho nên quần-chúng ngưỡng-mộ, theo về tấp nập. Người ta do đó mà bắt đầu tin tưởng Phật Trời, nghe Pháp và quy-y.

Ðồng thời với công việc chữa bịnh, Ðức Giáo-Chủ đứng ra thuyết-pháp để truyền giáo. Lời giảng của Ngài thao thao bất tuyệt suốt cả ngày đêm. Nhiều thi-sĩ, văn-gia hoặc luật-sư bác-sĩ đến chất-vấn, bắt bẻ, đều nhận Ngài là bậc đại-giác đại-ngộ, không thể suy-bì. Ai đã từng dõi gót theo Ngài trong cuộc khuyến-nông năm 1945, trong vòng 2 tháng với không biết bao nhiêu lý-luận khác nhau, đều phải công nhận Ngài là bậc “mồm sông bút sấm”.

Những cuộc thuyết-pháp nói chung, nếu cộng với 107 lần chu-du khuyến-nông vừa kể, chúng ta có thể nói Ngài đã trải qua một ngàn lần khuyến-thuyết quan-trọng với hằng ngàn đề-tài khác biệt.

Nhờ những cuộc thuyết-pháp như trên, người mộ đạo quy-căn, ngày càng đông thêm không xiết nói.

Nhưng công-đức vĩ-đại nhất của Ðức Giáo-Chủ trong việc truyền-giáo là việc viết ra Kệ Giảng. Nhờ những Kệ Giảng đó mới được phổ-truyền một cách sâu rộng chủ-trương canh-tân Phật-Giáo của Ngài, và nhờ đó mà hằng triệu người ngộ đạo đã quay về với chân-tính, tự tâm.

Nếu kiểm điểm lại con số Kệ Giảng đã ấn-loát và phát-hành từ năm 1939 đến nay, ta sẽ phải ngạc-nhiên chẳng ít, sách đã được tái bản trên 300 lần và mỗi quyển được in ra tối-thiểu cũng trên 800.000 quyển.

Nội-dung các tác-phẩm đó chứa đựng những gì? Cách lập-giáo ra sao? Và văn-thể, văn-từ như thế nào mà hấp dẫn được người xem đến thế? Ðó là điều mà trong lần tái-bản nầy, chúng tôi xin trình bày đại-cương để chư quí vị độc-giả đạo tâm bốn phương đồng lãm.

—OOO—

Những tác-phẩm mà Ðức Giáo-Chủ viết ra, phần nhiều thuộc thể văn vần.
Một điều đặc-biệt đáng chú ý là trong khi cầm bút, dù tản-văn hay vận-văn, Ngài luôn luôn viết thẳng một mạch không vấp không ngưng, không dùng giấy nháp và không hề bôi xóa, cắt xén như các văn sĩ thường làm. Người ta cho rằng Ngài viết mau lẹ và dễ-dàng hơn Ông Alcyone Krishnamurti khi viết quyển Aux pieds du Maitre.

Có thể kể theo thứ-tự thời-gian những tác-phẩm trường thiên sau đây của Ðức Giáo-Chủ:

1.-SẤM GIẢNG KHUYÊN NGƯỜI ÐỜI TU-NIỆM (tức quyển Nhứt, văn lục bát, dài 912 câu, xuất-bản lần đầu năm 1939).
Ngài viết xong trước Đệ-Nhị Thế-Chiến, tại làng Hòa-Hảo, Sấm Giảng nầy khởi đầu bằng câu:

Hạ-Nguơn nay đã hết đời,

và chấm dứt bởi câu:

Tới đây cũng lần ngừng lại bút nghiên.

Nội-dung, Ðức Giáo-Chủ đánh thức quần-chúng bằng cách tiên-tri những cảnh lầm-than khốn-khổ mà nhân-loại sẽ phải trải qua trong thời-đại nhiễu-nhương. Chẳng hạn, Ngài nói trước các năm từ lúc xảy ra cho đến khi chấm dứt đệ-nhị thế-chiến:

Mèo kêu bá-tánh lao-xao,
Ðến chừng Rồng, Rắn máu đào chỉn ghê.
Con Ngựa lại đá con Dê,
Khắp trong trần hạ nhiều bề gian lao.
Khỉ kia cũng bị xáo-xào,
Canh khuya Gà gáy máu đào mới ngưng.

Người ta đã thấy đúng trăm phần trăm từ khởi đầu cuộc chiến-tranh thế-giới lần thứ hai (Mèo kêu, 1939) cho đến khi hai quả bom nguyên-tử của Ðồng-Minh bỏ xuống nước Nhựt để chấm dứt chiến cuộc (Gà gáy, 1945), không sai một mảy.

Cuộc giết chóc ghê tởm của chiến-tranh tuy ngưng từ năm Gà, nhưng theo Ðức Giáo-Chủ, nó sẽ còn tái diễn tại Việt-Nam, và sẽ lan-diễn khắp nơi:

Ðời cùng còn chẳng mấy năm,
Khắp trong các nước thây nằm bằng non.
Cha thì chẳng thấy mặt con,
Vợ thì chồng chẳng được còn tại gia!

Trong tác-phẩm nầy, Ðức Giáo-Chủ cũng tường-thuật việc Ngài hóa-hiện ra đui cùi, buôn bán, khi già, lúc trẻ dạo khắp “lục châu” để thử lòng trăm họ, giác tỉnh mọi người, gọi họ theo về đường ngay, nẻo Ðạo.

2.-KỆ DÂN CỦA NGƯỜI KHÙNG (tức quyển Nhì, văn thất ngôn trường thiên, dài 476 câu, xuất-bản lần đầu năm 1939).
Ngài viết tại làng Hòa-Hảo ngày 12 tháng 9 năm Kỷ-Mão. Kệ nầy khởi đầu bằng câu:

Ngồi Khùng trí đoái nhìn cuộc thế,

và chấm dứt bởi câu:

Ta ra sức dắt dìu bá tánh.

Cũng như trong quyển thứ nhứt, ở đây Ðức Giáo-Chủ vừa tiên-tri tai nàn sắp xảy đến cho nhân dân, vừa khuyên mọi người làm lành lánh dữ:

Chẳng hạn như:

Ðến chừng đó bốn phương có giặc,
Khắp hoàn-cầu thiết-thiết tha-tha.
Vậy sớm mau kiếm chữ ma-ha,
Thì Phật cứu khỏi nơi khói lửa.

…..
Trung với hiếu ta nên trau trỉa,
Hiền với lương bổn đạo rèn lòng.
Thường nguyện cầu siêu-độ Tổ-Tông,
Với bá tánh vạn dân vô sự.

Rồi Ngài không ngần-ngại, đánh đổ những mê-tín dị-đoan, những âm-thanh sắc tướng, những sự dối tu, lòe đời:

Theo Thần-Tú tạo nhiều chuông mõ,
Mà xưa nay có mấy ai thành!

…..
Làm hiền-lành hơn tụng hơ-hà,
Hãy tưởng Phật hay hơn ó ré.
…..
Những giấy tiền vàng bạc cũng thôi,
Chớ có đốt tốn tiền vô lý.
…..
Tu vô-vi chớ cúng chè xôi,
Phật chẳng muốn chúng sanh lo-lót.

3.- SẤM GIẢNG (tức quyển Ba, văn lục bát, dài 612 câu, xuất bản lần đầu năm 1939).
Ngài cũng viết tại làng Hòa-Hảo năm Kỷ-Mão, khởi đầu bằng câu:

Ngồi trên đảnh núi liên-đài,

và chấm dứt bởi câu:

Chúc cho bá-tánh muôn sầu tiêu tan.

Trong quyển nầy, Ðức Giáo-Chủ dạy tu nhân-đạo, Ngài viết:

Tu cầu cha mẹ thảnh-thơi,
Quốc-vương thủy thổ chiều mơi phản hồi.
Tu đền nợ thế cho rồi,
Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen.

Ðối với hạng thanh-niên nam nữ, thường dễ bị văn-minh vật-chất hoặc dục-vọng lôi cuốn đến bờ trụy lạc, Ngài kêu gọi:

Nghiêm-đường chịu lịnh cho an,
Loạn luân cang kỷ hổ mang tiếng đời.

Hoặc là:

Nghe lời cha mẹ cân-phân,
Tam tùng vẹn giữ lập thân buổi nầy.

Và Ngài cũng cực-lực đả-phá những hủ-tục, bài xích những thói xa-hoa, đàng-điếm. Chẳng hạn:

Chết rồi cũng bớt cóc keng,
Trống đờn lễ nhạc tế xen ích gì!
Ðàn nhu thầy lễ cũng kỳ,
Mắc phải chuyện gì phủ-phục bình hưng?

Hay là:

Văn-minh sửa mặt sửa mày,
Áo quần láng mướt ngày rày ăn chơi.
Dọn xem hình vóc lả-lơi,
Ra đường ăn nói những lời nguyệt-hoa.

Nếu chịu vẹn gìn theo lời chỉ giáo trong quyển SÁM GIẢNG nầy, thì nhân đạo của ta ắt có thể coi là hoàn-bị lắm.

4.- GIÁC MÊ TÂM KỆ (tức quyển Tư, văn thất ngôn trường thiên, dài 846 câu, xuất-bản lần đầu năm 1939).
Ðức Giáo-Chủ viết tại Hòa-Hảo ngày 20 tháng 9 năm Kỷ-Mão. Kệ nầy khởi đầu bằng câu:

Khai ngọn đuốc từ-bi chí thiện,

và chấm dứt bởi câu:

Mong bá-tánh vạn dân giải-thoát.

Nơi đây, Ðức Giáo-Chủ có nói trước những tai-họa hãi-hùng mà chúng sanh sẽ phải trải qua trong thời Hạ-nguơn mạt kiếp:

Khổ với thảm ngày nay có mấy,
Sợ ngày sau dòm thấy bay hồn.
Trừ tà gian còn thiện chỉ tồn,
Cảnh sông máu núi xương tha-thiết.

Ngài lại còn giảng rõ thế nào là tứ đổ tường, tứ khổ, ngũ uẩn, lục căn, lục trần, tứ diệu đề, bát chánh và bát nhẫn.
Còn gì đáng coi là nhẫn-nhục, hỷ-xả hơn những câu sau đây:

Ai chưởi mắng thì ta giả điếc,
Ðợi cho người hết giận ta khuyên.
Chữ nhẫn hòa ta để đầu tiên,
Thì đâu có mang câu thù oán.

5.- KHUYẾN-THIỆN (tức cuốn thứ Năm, đoạn đầu và đoạn chót viết bằng lối văn lục bát, đoạn giữa viết bằng lối thất ngôn, gồm 756 câu, xuất bản lần đầu năm 1942).
Ngài viết tại nhà thương Chợ Quán năm 1941. Tác-phẩm nầy khởi đầu bằng câu:

Băng tâm ngẫu hứng thừa nhàn,

và chấm dứt bởi câu:

Rán trau đức-hạnh ngày sau sẽ tường.

Nội-dung, Ðức Giáo-Chủ nhắc tiểu-sử Ðức Thích-Ca và luận giải về tám sự khổ trong cõi Ta-bà, về pháp môn tịnh độ, về cách diệt ngũ-trược, trừ thập ác và hành thập thiện.

6.-CÁCH TU HIỀN VÀ SỰ ĂN Ở CỦA MỘT NGƯỜI BỔN ÐẠO.
Quyển nầy viết bằng văn xuôi, hồi tháng 5 dl 1945 tại Sàigòn và xuất-bản lần đầu cũng trong năm ấy. Tuy văn xuôi, quyển nầy có một đặc-sắc là giản-dị và lưu loát, âm-hưởng du-dương, nhịp-nhàng.

Nơi đây, Ðức Giáo-Chủ minh-giải về tứ ân, tam-nghiệp, thập-ác và bát-chánh. Ngài còn giảng dạy về cách thờ-phượng, cúng lạy, nghi-thức cử-hành tang-lễ, giá-thú, cách đối xử với các tôn-giáo bạn, với các tăng-sư, v.v…

Ngoài sáu quyển vừa kể, Ðức Giáo-Chủ còn viết ra rất nhiều bài thi, bài văn mà trước đây 13 năm, một nhóm tín-đồ tại Thánh-Ðịa Hòa-Hảo đã gom góp để in thành một quyển, nhan đề SƯU TẬP THI VĂN GIÁO-LÝ CỦA ÐỨC HUỲNH GIÁO-CHỦ.

Sách dày trên 300 trang, nội dung gồm có gần đủ loại thơ ca: thất ngôn bát cú, tứ tuyệt, ngũ ngôn, lục bát, thất ngôn trường thiên, song thất lục bát, tứ ngôn và một số bài biến thể. Trong đây, Ðức Giáo-Chủ hoặc viết để dạy riêng một người hay đáp họa với một người khác, hoặc viết để cảnh-giác, hoặc viết để khuyến tu…tựu trung, nhứt nhứt đều có bao-hàm một giáo-nghĩa thâm-huyền mà cho dẫu không phải người trong cuộc, đọc đến cũng đều có ích lợi cho sự tu-hành.
Riêng phần văn-từ, nói chung toàn bộ, Ngài chủ-trương:

Quyết dạy trần nên nói lời thường,
Cho sanh-chúng đời nay dễ biết.

Hoặc là:

Dạy bổn-đạo lấy câu trung đẳng,
Chẳng nói cao vì sắp rốt đời.

Cho nên, với những lời văn vô cùng giản-dị nhưng ngọt-ngào và óng-chuốt Ðức Giáo-Chủ dụng tâm làm cho hạng bình-dân dễ thuộc dễ theo, để sớm đưa họ tiến tới con đường lành mà Ngài đã vạch ra và đã nhất tâm phát-nguyện:

Quyết đưa chúng về nơi non Thứu,
Tạo Lư-bồng ngõ hội Quần Tiên.

Hoặc:

Nếu chúng-sanh còn chốn mê-tân,
Thì ta chẳng an vui Cực-Lạc.

Hay là:

Biết làm sao gieo Đạo khắp đại-đồng,
Ðưa nhân-loại đi vào vòng hạnh-phúc.

—oOo—

Như đã nói ở đoạn đầu, những Kệ Giảng nêu trên, mỗi quyển được in ra từ trước đến nay, ít nhất cũng trên 800.000 quyển.

Tuy nhiên, sách càng được in ra nhiều chừng nào, thì cái bịnh tam-sao thất bổn càng trầm-trọng thêm chừng nấy. Bởi một lẽ rất giản-dị là suốt trong thời thực-dân thống-trị cho đến hồi độc-tài phong-kiến, vì thời-cuộc, đoàn-thể Phật-Giáo Hòa-Hảo không mấy lúc được yên-lành. Cho nên công việc phát-hành Kệ Giảng phần nhiều do các đồng-đạo có nhiệt-tâm đứng ra ấn-loát chớ ít được dịp do một cơ-quan nào trong Giáo-Hội theo dõi việc in. Cái bịnh tam-sao thất bổn vốn đã sẵn có, tự thuở còn được truyền-bá bằng cách chép tay, nay lại càng sai thêm với biết bao nhiêu lần in thiếu người có khả-năng chuyên-môn xem sóc.. .

Chính vì những sự sai lầm đáng tiếc đó mà ngay từ khi Ban Trị-Sự Trung-Ương Giáo-Hội Phật-Giáo Hòa-Hảo nhiệm-kỳ đầu tiên (18-11-1964) được tái-lập sau một thời-gian dài gián-đoạn, Ban Phổ-Thông Giáo-Lý Trung-Ương chúng tôi đã ghi ngay vào hàng đầu của Chương-trình hoạt-động, công-tác đính-chánh Kệ Giảng hệ-trọng nầy, và bắt tay vào việc ngay sau phiên đại-hội toàn quốc về Phổ-Thông Giáo-Lý ngày 27 tháng 12 năm 1964.

Ngày 8-3-1965, một Chỉ-thị số 233/TƯTV/19-GL gởi các cấp Phổ-Thông Giáo-Lý Tỉnh, Quận và Xã để tham-khảo ý-kiến toàn-thể Trị-Sự-viên và tất cả đồng-đạo nào có để tâm nghiên-cứu về những câu, những chữ cần bổ khuyết hay đính-chánh trong Kệ Giảng.

Theo thời-gian-biểu của chúng tôi, thì công-việc tham-khảo các cấp nầy kéo dài một tháng rưỡi kể từ 15-3-1965, đến 30-4-1965, và sau đó, chúng tôi mới cẩn-thận làm bản đúc-kết lại các đề-nghị để trình ra hội nghị, hầu như tham khảo một lần tối-hậu để lấy biểu-quyết những chỗ đáng sửa đổi.

Ngày 17-5-1965, một hội-nghị được khai-mạc tại Văn-phòng Ban Phổ-Thông Giáo-Lý Trung-Ương (Thánh-Ðịa Hòa-Hảo) trong sự chứng minh của Ông Út Huỳnh-Văn-Quốc, bào-đệ Cố Ðức Ông và dưới quyền Chủ-tọa của Ông Lương-Trọng-Tường, Hội-Trưởng Ban-Trị-Sự Trung-Ương.

Ông Nguyễn-Văn-Hầu, Trưởng-Ban Phổ-Thông Giáo-Lý Trung-Ương giữ nhiệm-vụ Thuyết-trình-viên và ông Trần-Minh-Quang, Thư-Ký Ban Phổ-thông Giáo-Lý Trung-Ương, làm Thư-Ký phiên hội.

Thành phần tham-dự hội-nghị gồm có:
– Ô.Ô. Dật-Sĩ Trần-Văn-Nhựt, Cố-Vấn Ban Trị-Sự Trung-Ương kiêm Trưởng-Ban Nghiên-Cứu và Biên-Tập trong Ban Phổ-Thông Giáo-Lý Trung-Ương.
– Trí-Viễn Lê-Hòa-Nhựt, Cố Vấn Ban Trị-Sự Trung-Ương kiêm Cố-Vấn Ban Phổ-Thông Giáo-Lý Trung-Ương.
– Huỳnh-Công-Kỷ, Trưởng Ban Phổ-Thông Giáo-Lý Tỉnh An-giang.
– Phạm-Văn-Tốt, Trưởng Ban Phổ-Thông Giáo-Lý Tỉnh Kiến-Phong.
– Bùi-Văn-Triệu, Trưởng Ban Phổ-Thông Giáo-Lý Tỉnh Châu-Ðốc.
– Lê-Thanh-Quang, Trưởng Ban Phổ-Thông Giáo-Lý Tỉnh Phong-Dinh.
– Lâm-Văn-Trung, Kiểm-Soát B.T.S. Tỉnh Châu-Ðốc.
– Nguyễn-Chi-Diệp, Cố-Vấn B.T.S. Thánh-Ðịa Hòa-Hảo.
– Huỳnh-Hữu-Phỉ, Nhân-sĩ kỳ-cựu P.G.H.H.
– Trần-Văn-Mành, Trưởng Ban Phổ Thông Giáo Lý Thánh-Ðịa Hòa-Hảo, xã Hưng-Nhơn.
– Ngô-Minh-Chí, Phó Ðặc-Ban Biên-Tập và Xướng-ngôn Ðài Phát-Thanh, thuộc Ban Phổ-Thông Giáo-Lý Trung-Ương.
– Ðào-Văn-Ðạm, Quản-Lý Nguyệt-san Ðuốc Từ-Bi, thuộc Ban Phổ-Thông Giáo-Lý Trung-Ương.
– Trịnh-Công-Dung, Hội-Trưởng B.T.S. Quận Châu-Phú.
– Lê-Văn-Phú, Trưởng-Ban Phổ-Thông Giáo-Lý Quận Châu-Phú.
– Ðặng-Thành-Tựu, Trưởng-Ban Phổ-Thông Giáo-Lý Quận Chơ-Mới.
– Trường-Thi, Hội-Trưởng B.T.S. Quận Thốt-Nốt.
– Nguyễn-Văn-Nam, Trưởng-Ban Phổ-Thông Giáo-Lý Quận Châu-Thành (An Giang).
– Phạm-Hữu-Vỹ, Trưởng-Ban Tiếp-Tân tại Tây-An Cổ-Tự (Long-Kiến).
– Nguyễn-Văn-Bửu, Ðặc-Viên Ấn-Loát Phát-Hành, thuộc Ban Phổ-Thông Giáo-Lý Trung-Ương.
– Nguyễn-Anh-Kiệt, Ðặc-Viên Huấn-Luyện Truyền-Bá thuộc Ban Phổ-Thông Giáo-Lý Trung-Ương.

Hội-nghị nầy đã làm việc một cách tận-tụy và say mê, đã đính-chánh và bổ-khuyết được nhiều điều quan-trọng mà kết-quả là quyển Sấm Giảng Thi-Văn toàn-bộ được in ra hôm nay.

Sách chia làm hai phần, phần đầu gồm sáu quyển với các loại Sấm, Kệ, Giảng, Văn…, mệnh danh: Phần thứ nhất: Sấm Giảng Giáo-Lý và phần sau gồm hằng trăm bài Thi, Ca, Văn, Chú… mệnh danh: Phần thứ hai: Thi-Văn Giáo-Lý. Trong các bài Thi-Văn Sấm Kệ kể trên, chúng tôi cố-gắng sắp theo thứ-tự thời-gian để Chư quý độc-giả đạo-tâm tiện bề theo dõi.

Với mục-đích “đính-chánh những điều tam-sao thất-bổn hoặc nghe lầm nhớ lộn đã làm sai biệt hẳn nguyên-văn về chân ý của Ðức Thầy trong Kệ Giảng” chúng tôi làm việc theo sáu nguyên tắc dưới đây:

1) Nỗ-lực sưu-tầm trong các đồng-đạo kỳ-cựu nào còn giữ được bản chánh do chính Ðức Giáo-Chủ viết ra để dò từng chữ mà sửa lại những chỗ in sai.
2) Những tác-phẩm nào kiếm không ra được bản chánh, thì hội-nghị mới xét tới các đề-nghị của các cấp mỗi khi gặp những chữ cần đính-chánh.
3) Các đề-nghị đính-chánh của các cấp đồng-đạo cũng như của hội-nghị là phải trưng ra bằng cớ cụ-thể là “Tại sao phải sửa lại như thế”:
– do chính tai họ nghe Ðức-Thầy đính-chánh trước đây cùng với sự hiện diện của ai, hồi nào?…
– do họ là những người đã ngồi bên cạnh Ðức Thầy, sao chép những bổn Kệ Giảng để phát ra cho dân-chúng trong buổi đầu mở đạo?…
– do những bản in cũ từ buổi đầu và xét ra hữu lý?…
4) Hội-nghị chỉ nhắm vào công-tác đính-chánh chứ không có thẩm-quyền thêm bớt nếu không có bằng cớ xác đáng.
5) Ghi vào biên-bản hẳn-hòi những chữ, những câu và những lý do nào cần bổ-khuyết hay sửa đổi để lưu-trữ tại Văn-Phòng Ban Phổ-Thông Giáo-Lý Trung-Ương hầu làm tài liệu tham-khảo cho những ai còn thắc-mắc.
6) Tất cả những-đề nghị sửa đổi, người đề-nghị quả-quyết nhận trách-nhiệm trước Ðức Thầy, trước các Ðấng Thiêng-liêng là họ đã nói đúng, nghe đúng và nghĩ đúng.
Một vài thí-dụ sau đây để được sáng-tỏ thêm việc làm của hội-nghị:

– Những bài dò theo bản chánh do Ðức Thầy viết ra, hội-nghị đồng ý phải cho ghi ở cuối bài là bản đó do ai còn giữ được.

– Trong bài Sứ-mạng của Ðức Thầy, lâu nay đã in “tuy có phải chuyển kiếp luân-hồi ở nơi hải-ngoại…” và “kẻ xa-xuôi từ nan chẳng tới…”; nay Ông Dật-Sĩ xác-nhận rằng chính Ông đã thấy tận mắt trong một bản chánh hồi Ông còn ở Bạc-Liêu là “tùy cơ-pháp chuyển kiếp luân-hồi ở nơi hải-ngoại…” và “kẻ xa-xuôi từ-văn chẳng tới…” chớ không phải như các bản đã lưu-hành trước đây.

Xét ra, Ðức Thầy viết bài nầy tại Bạc-Liêu năm 1942 và ông Dật-Sĩ trong thời-gian ấy cũng đang làm việc tại đó, vả lại ý nghĩa rất hợp nên hội-nghị đồng ý sửa đổi.

– Ngoài nhiều bản chánh mà ông Nguyễn-Chi-Diệp còn giữ được để hội-nghị dùng làm tài-liệu khảo-sát, ông Diệp còn cải chánh sự in sai trong Sấm Giảng quyển Ba mà ông đã nghe biết rõ-ràng từ khi Ðức Thầy còn ở tại Thánh-Ðịa:

“Tu hành tầm đạo một mai cứu đời”.

chớ không phải:

“Tu hành tâm đạo một mai cứu đời”.

– Ông Huỳnh-Hữu-Phỉ trình-bày trước hội-nghị rằng trong bài Sa-Ðéc chính Ðức Thầy có sửa một bản do Ông dâng lên. Câu đầu bài đó chép:

“Nhìn cuộc thế bốn-bề sóng dậy”

Ðức Thầy đã sửa lại:

“Nhìn cuộc thế bộn-bề sóng dậy”

Và cũng theo ông Phỉ câu đầu trong bài “Nang thơ cẩm tú” có hai chữ thanh-bạchthanh-lặng đã gây bất nhất giữa anh em tín đồ, kẻ đọc thanh lặng, người cãi là thanh-bạch, cho nên lúc Ðức Thầy ở tại Saigon, đường Lefèbvre, ông có trình lên thỉnh ý. Và Ðức Thầy xác-nhận :

“Trời thanh-lặng gió đưa hiu hắt”.

– Ông Lâm-Văn-Trung quả-quyết: Trong bài “Viếng làng Mỹ-Hội-Ðông”, Ðức Thầy không hề viết bốn câu đầu, từ “Buông mành thả lá…” đến “…máy huyền sâu”, nên đề-nghị bỏ. Hội-nghị xét ông Trung là người Mỹ-Hội-Ðông, mà ông cũng được gần gũi bên Thầy trong buổi viết bài nầy, nên đồng ý xóa mấy câu đó trong bản in trước.

Phải có những chứng-tích dẫn giải rành mạch và trách-nhiệm phân-minh như thế, hội-nghị mới đồng-thanh chấp-nhận và đính-chánh lại những chổ sai lầm.

—oOo—

Tuy đã thận-trọng như trên, nhưng sau khi hội-nghị bế-mạc, công việc nầy còn phải kéo dài thêm một thời-gian làm việc nữa. Ðó là công việc dò kỹ từng chữ, từng câu để sửa lại từng dấu, từng nét. Quý Ông Cố-Vấn Dật-Sĩ, Thơ-Ký Trần-Minh-Quang, Quản-Lý Ðào-Văn-Ðạm và Phát-Hành-viên Nguyễn-Văn-Bửu đều đã thiết-thực góp tay với ông Trưởng-Ban Phổ-Thông Giáo-Lý Trung-Ương Nguyễn-Văn-Hầu trong công việc nầy.

Sau hết, một vấn-đề không kém quan-trọng là việc sửa ấn-cảo. Nếu ẩn cảo mà không được người có khả-năng xem sóc thì bao nhiêu công-trình từ trước sẽ không được bảo-đảm nếu không nói là hỏng đi. Ông Thành-Nam, Ðệ-Nhất Phó Thư-Ký Ban Trị-Sự Trung-Ương đã phát-tâm hoan-hỉ đảm-nhận công-tác nầy.

Hôm nay, quyển Sấm Giảng Thi-Văn Toàn-Bộ của Ðức Huỳnh Giáo-Chủ được đến trong tay Quý-vị độc-giả đạo-tâm, là kết-quả của bao nhiêu công việc vừa trình-bày trên đây với suốt một thời-gian dài trên 10 tháng.

Ðã hiểu rằng “Nhân thân nan đắc, Phật Pháp nan văn” cho nên làm công việc này, chúng tôi không có cao vọng gì hơn là muốn chính-xác-hóa những chổ in lầm trong Giáo-Pháp của Ðức Huỳnh Giáo-Chủ – một Giáo-Pháp nhiệm-mầu và thực-tế – hầu có quảng-bá một cách sâu rộng hơn nữa trong quảng-đại quần-sanh, để những người có cơ-duyên sẽ do đó mà bước lên con đường cùng tu cùng tiến.

Nếu Kinh Pháp-Hoa chép: “Phật vị nhất đại sự nhân-duyên xuất-hiện ư thế” (Phật vì một nhân-duyên lớn mà có mặt trên đời) thì nơi đây, chúng tôi cũng dám xin nguyện cầu Chư Phật và Ðức Thầy gia-hộ cho người người được rộng mở nhân-duyên, xem SẤM KINH nầy mà phát-tâm thiện-nguyện.

Ðược như thế, chúng tôi tưởng không có nguồn vui nào hơn.

NAM-MÔ A-DI-ÐÀ PHẬT

Thánh-Ðịa Hòa-Hảo,
Ngày rằm tháng bảy Ất-Tỵ (1965)
Ban Phổ-Thông Giáo-Lý Trung-Ương
(nhiệm-kỳ I, 1964-1966)
Cẩn khải

THAY LỜI TỰA
[trở lại đầu trang]

Sứ-mạng của Ðức Thầy
(do chính tay Ngài viết)

Ngày 18 tháng 5 năm Kỷ-Mão, vì thời-cơ đã đến, lý Thiên-Ðình hoạch-định, cuộc nguy-cơ thảm-họa sắp tràn lan. Ta đây tuy không thể đem phép huệ-linh mà cứu an tai-họa chiến-tranh tàn khốc do loài người tàn-bạo gây nên, nhưng mà thử nghĩ: Sinh trong vòng đất Việt-Nam nầy, trải qua bao kiếp trong địa-cầu lăn-lộn mấy phen, tùy cơ pháp chuyển kiếp luân-hồi ở nơi hải-ngoại để thu-thập những điều đạo-học kinh-nghiệm huyền-thâm, lòng mê-si đã diệt, sự vị-kỷ đã tan mà kể lại nguồn gốc phát sinh, trải bao đời giúp nước vùa dân cũng đều mãi sinh-cư nơi đất Việt. Những tiền-kiếp dầu sống cũng là dân quan đất Việt, dầu thác, cũng quỷ thần đất Việt chớ bao lìa. Những kiếp gần đây, may-mắn gặp minh-sư, cơ truyền Phật-Pháp, gội nhuần ân-đức Phật, lòng đà quảng-đại từ-bi, hiềm vì nổi cảnh quốc phá, gia vong, máy huyền-cơ đã định, lòng thương trăm họ vướng cảnh, đồ lao, chi xiết xót thương chúng sanh vạn khổ.

Nghĩ lúc còn làm người trong biển tục, lăn-lộn chốn mê đồ, mà chẳng quản thân giúp thế cứu dân, vong thân vị quốc, huống chi nay cơ mầu đà thấu tỏ, sớm chiều hầu chơn Phật nghe kinh, ngao du tứ-hải, dạo khắp Tiên-bang, cảnh an-nhàn của người liễu-đạo, muôn ngày vô sự, lóng sạch phàm tâm, sao chẳng ngồi nơi ngôi vị hưởng quả bồ-đề trường thọ mà còn len-lỏi xuống chốn hồng-trần, đặng chịu cảnh chê khen? Vì lòng từ-ái chứa-chan, thương bách-tính tới hồi tai-họa. Phật-Vương đà chỉ rõ máy diệu huyền chuyển lập hội Long-Hoa, chọn những đấng tu hành cao công quả để ban cho xứng vị xứng ngôi, người đủ các thiện-căn để giáo truyền Ðại-Ðạo, định ngôi phân thứ gây cuộc Hòa-Bình cho vạn quốc chư bang.

Thiên-Tào đà xét định, khắp chúng sanh trong thế-giới trong cái buổi Hạ-Nguơn nầy, say mê vật-dục, chìm đắm trong biển lợi-danh, gây nên nghiệp-quả, luật trời đà trị tội, xét kẻ thiện-căn thì ít, người tội-ác quá nhiều, chư Phật mới nhủ lòng từ-bi cùng các vị chơn-Tiên lâm phàm độ thế, trước ra công cứu khổ, sau chỉ rõ cơ-huyền, khuyên kẻ thế hướng thiện quày đầu, cải tà quy chánh thì mới mong Thiên Ðình ân xá bớt tội căn để kíp đến Long-Hoa chầu Phật, trước biết rõ luật Trời thưởng phạt, cùng hữu duyên nghe Phật pháp nhiệm mầu, kiến diện bậc Chơn-Sư, tu hành mau đắc quả, sau làm dân Phật quốc hưởng sự thái-bình, bởi đời nầy pháp-môn bế mạc, Thánh đạo trăn vu, người tâm trí tối đen, đời lắm Ma-Vương khuấy rối. Ta là một trong các vị cứu đời ấy. Ai liễu Ðạo nơi quốc-độ nào thì cũng phải trở về quốc-độ ấy mà trợ tế nhân dân; vì thể lòng từ-bi bác-ái cùng thù đáp những linh hồn đã trợ duyên trong nhiều kiếp giúp Ta nương cậy tu hành, nên ngày 18 tháng 5 năm Kỷ-Mão, Ta hóa hiện ra đời cứu độ chúng sanh. Tuy là nhơn-dân mới rõ pháp mà tưởng rằng Ta thượng xác cỡi đồng chớ có dè đâu chuyển kiếp đã từ lâu chờ đến ngày ra trợ thế. Nên phương pháp của Ta tùy trình-độ cơ cảm của Tín-nữ Thiện-nam, trên thì nói Phật-pháp cho kẻ có lòng mộ Ðạo qui căn, gây gốc thiện-duyên cùng Thầy Tổ, dưới dùng huyền-diệu của Tiên-gia độ bịnh để cho kẻ ít căn lành nhờ được mạnh mà cảm lòng từ-bi của Chư Vị với Trăm Quan, thảm-thiết lê dân lầm than thống-thiết, mà lời lành nghe tựa hồ như nhớ như quên, nên kẻ xa xuôi từ-văn chẳng tới, người láng-diềng tiếng kệ nhàm tai. Ðến trung tuần tháng Tám, Ta cùng Ðức-Thầy mới tá hiệu Khùng Ðiên, mượn bút mực tiết lộ lấy Thiên-cơ, truyền cho kẻ xa gần đều rõ biết hầu ăn-năn cải quá làm lành, còn kẻ chẳng tỉnh tâm sau đền tội cũng chẳng trách Phật Tiên không chỉ bảo.

Vẫn biết đời Lang-sa thống trị, phép nước nghiêm-hình, dân chúng nếu yêu thương sẽ lắm điều hiềm khích; nhưng mà Ta nghĩ nhiều tiền kiếp Ta cũng hy-sinh vì Ðạo, nào quản xác thân. Kiếp chót nầy đây há lại tiếc chi thân phàm tục, song vì tình cốt-nhục tương thân, cũng ủng-hộ, chở che cho xác phàm bớt nỗi cực hình.
Bạc-Liêu, ngày 18-5 Nhâm-Ngũ (1942).